Tuần trước, mình có dịp ghé thăm một người bạn vong niên, người Mỹ, sống ở Chapel Hill, một thành phố cách đây không xa lắm. Buổi ăn trưa kéo dài vài tiếng đồng hồ, ngồi nghe ông chia sẻ về văn học, ca dao dân ca Việt Nam. Dù là người Mỹ, nhưng sự am hiểu của ông về tiếng Hán và tiếng Việt luôn khiến mình kinh ngạc. Ông là giáo sư chuyên ngành Trung văn cổ đại, lại có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ, nên khi trò chuyện bằng tiếng Việt hay các ngôn ngữ khác, ông luôn thể hiện sự sâu sắc và phong phú trong cách dùng từ, vượt xa những từ ngữ giao tiếp thông thường. Điều này thật đáng kính trọng.
Mình say sưa nghe ông diễn giải những mẫu chuyện từ thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Quốc cho đến "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi, "Tục ngữ phong dao" của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc... Ngồi nghe mà cảm giác lạ lẫm, một người Việt nghe một người Mỹ phân tích kho tàng ngôn ngữ và văn hóa dân tộc mình. Thực ra, đây không phải lần đầu mình có cảm giác này. Mấy năm trước, khi nhận ra thư viện văn học đầy đủ nhất về Việt Nam lại nằm ở đại học Cornell (New York, Mỹ), chứ không phải ở một thư viện nào khác trong nước hay cộng đồng người Việt hải ngoại, thì mình cũng rất bất ngờ, như thể phát hiện ra "Tàng Kinh Các" không ở Thiếu Lâm Tự vậy. :-)
Rồi tự an ủi, rằng ngôn ngữ là tài sản chung của nhân loại. Nếu không cẩn thận, có thể như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, cả đời dấn thân vào tham vọng kinh điển của "Tàng Kinh Các" mà bị "tẩu hỏa nhập ma". Ngược lại, Vô Danh Thần tăng, suốt đời chẳng cần tên tuổi, không cần cạnh tranh với ai, chẳng dính mắc gì, chỉ lo quét lá, lau chùi, dọn dẹp, mà lại có thể hóa giải được mối hận thù truyền kiếp của bao người tên tuổi lẫy lừng.
Nhắc lại, mình cũng từng hỏi ông bạn già E.H về việc dịch các tác phẩm lịch sử cổ đại Việt Nam như "Lĩnh Nam Chích Quái" và "Việt Điện U Linh Tập" sang tiếng Anh. Dẫu biết ông đã bắt tay vào công việc này từ lâu, nhưng không biết đã hoàn thành chưa. Mình lâu nay vẫn thắc mắc về việc đất nước ta vốn đầy rẫy nhân tài, thậm chí thặng dư, nhưng chẳng thấy ai dịch những tác phẩm này ra tiếng Anh. Nay lại thấy ông bạn già ngoại quốc miệt mài làm việc này, nên mình thường đùa rằng ông "mắc nợ" dân Việt Nam. Tuy nhiên cũng có chút xấu hổ vì bản thân bất tài, không giúp ích được gì, nên thỉnh thoảng mời ông uống cà phê, hỏi thăm có cần hỗ trợ gì không. Nhưng lần nào ông cũng chỉ trả lời gọn lỏn: "Không, tôi đã có tất cả, chỉ thiếu thời gian!". Mình biết ông bận rộn với bao công trình dịch thuật khác, từ văn học, âm nhạc đến nghiên cứu văn hóa, nên thôi, coi như tuỳ duyên vậy. Cái gì đến sẽ đến, lâu lâu ghé thăm, mời ly nước bữa trưa, cũng là cách trả ơn "vác ngà voi" cho ông :-).
Dù vậy, mình cũng từng tự hỏi, liệu có bao nhiêu người VN hiện nay biết đến hoặc quan tâm đến những tác phẩm như "Lĩnh Nam Chích Quái" hay "Việt Điện U Linh Tập"? Nhớ có lần xem chương trình "Ai là triệu phú" ở Việt Nam, có câu hỏi về "Tự Lực Văn Đoàn". Người chơi trả lời là một gánh hát cải lương, và cô ấy hình như là giảng viên đại học. Nghe mà rụng rời, nhưng đó lại là chuyện "thường ngày ở huyện". Thực ra, chữ nghĩa, văn hóa, văn chương ngày nay đã khác nhiều so với trước. Tất nhiên, ai cũng có giới hạn và phạm vi hiểu biết của riêng mình. Nhưng nguy hiểm hơn cả là sự truyền tải sai lệch thông tin, vô tình hay cố ý, dẫn đến những hiểu lầm và suy diễn sai trái trong cuộc sống. Ngôn ngữ bị lạm dụng, khái niệm bị đánh tráo. Phương tiện truyền thông ngày nay quá đa dạng và tiện nghi, dễ dàng tạo ra sự hỗn độn khó phân biệt đúng sai. Đặc biệt trong các vấn đề tôn giáo và văn hóa xã hội, nơi lòng tin được hình thành và nuôi dưỡng, lại bị chi phối quá nhiều bởi lợi nhuận và vật chất, hình tướng, dẫn đến tâm lý nghi ngờ, hoang mang, sinh ra nhiều nghi vấn và thất vọng trong xã hội. Ngày càng nhiều những hiện tượng cuồng tín, chia rẽ, a dua, công kích, hận thù... xảy ra trong đời sống. Nhưng lại hiếm hoi những sự quan sát độc lập, phân tích khách quan, sáng suốt, trung thực dựa trên sự thật. (À, mà nếu có, chắc gì thiên hạ lại chịu nghe :-)). Tất nhiên lâu nay, "đám đông" (mặc dù không phải là đa số) và các ứng dụng công nghệ, luôn là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến những hiện tượng này. Mà một khi nói đến hiệu ứng của dư luận, lời đồn, hoặc tin tức nghe ngóng từ 'đám đông", thì ôi thôi tây ta gì cũng thế, muôn hình vạn trạng. Đơn giản từ một cuộc bầu cử cho đến những sự kiện cuồng tín vô căn cứ, tạo ra công kích và chia rẽ hận thù, đều xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa giống nhau, mặc dù hình thức có khác. Albert Einstein có câu "Just because you believe in something does not mean that it is true". (Tạm dịch: Anh tin vào điều gì đó không có nghĩa đó là sự thật). Trong lịch sử nhân loại xưa nay, đám đông không phải lúc nào cũng đại diện cho trí tuệ, nhưng sức mạnh và hệ lụy của nó tạo ra lại vô cùng nguy hiểm. Ông Mark Twain cũng có một câu rất nổi tiếng là "Whenever you find yourself on the side of the majority, it may be time to stop and reflect". (Tạm dịch: Khi nhận ra mình đang đứng về phía đám đông, thì nên dừng lại và chiêm nghiệm lại vấn đề). Nhưng thực ra nếu cứ khăng khăng cho mình là đúng, tự hào là đỉnh cao của nhân loại, thì dù có chiêm nghiệm bao nhiêu cũng chẳng ích lợi gì!
Trở lại đề tài chính mà mình và ông bạn già trao đổi hôm trước, đó là nhân duyên. Mình và anh bạn đều cho rằng mọi thứ có được, hoặc thành tựu trên đời, từ lớn đến nhỏ, đều do "nhân & duyên" (causes & conditions), chứ không phải do bất kỳ thiên tài hoặc vĩ nhân nào một mình có thể tạo ra. Mọi thứ sinh ra đều do duyên khởi, lệ thuộc vào nhiều yếu tố cần thiết khác nhau. Và tất cả các sự vật luôn biến đổi (vô thường), có sinh tất có diệt. Cho nên cũng chẳng có gì cần phải ầm ĩ, xưng tụng cho lắm :-). Thực ra ngay từ buổi sơ khai của vũ trụ, Big Bang cho đến giai đoạn các loài sinh vật hình thành, thì nguyên lý vô thường và duyên khởi đã tồn tại. Nghĩa là trước khi thái tử Tất Đạt Đa ra đời hàng triệu năm thì "nhân & duyên" đã hiện diện ở thế giới này. Những quy luật nhân quả, vô thường, luôn chi phối vạn sự, vạn vật trong vũ trụ, không có ngoại lệ. Và ngày nay khoa học hiện đại cũng chứng minh rõ ràng điều đó. Tuy nhiên, cho đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca xuất hiện, Ngài mới bắt đầu giảng thuyết về những chân lý sự thật trong đời sống, chỉ ra những nguyên lý vận hành tự nhiên của vô minh tham ái, sinh tử dính mắc, để hướng dẫn chúng sinh thực hành tự tìm đến con đường giải thoát. Từ đó về sau, trong các kinh điển truyền thừa PG thường nhắc đến những tư tưởng và từ ngữ như vô thường (impermanence), nhân quả (cause & effect), nhân duyên (causes & conditions), duyên khởi (causation) .v.v.. Bởi vậy có một số ít người hiểu lầm cho rằng đó là những sản phẩm của đạo Phật tạo ra. Thực ra thì không phải vậy, đó là những chân lý sự thật của vũ trụ. Cho dù Đức Phật chưa hề xuất hiện ở thế gian này, hoặc Ngài chưa hề thuyết giảng về những điều đó, thì những chân lý đó vẫn tồn tại và vận hành như vậy. Bạn có thể không tin nhân quả, không tin vô thường, nhưng quy luật nhân quả và vô thường thì vẫn cứ vận hành đúng theo chiều hướng mà nó phải vận hành. Nôm na, những người hiểu chuyện thường cho rằng đó là cách vận hành của "pháp".
Ví dụ, một ông xây được cái nhà, là do hội đủ nhiều điều kiện như tài chánh, thợ thầy, thiết kế, gạch, đá, xi măng, vợ chồng đồng thuận, đền bù giải tỏa êm thắm ..v.v...hoặc lung tung gì đó. Một đứa con học được ra ông này bà nọ, là do cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng, do thầy cô, bạn bè, xã hội, ông bán hủ tíu, bà bán xôi, người phu trường, cái ăn, cái mặc .... Một ông lãnh đạo được thăng quan tiến chức, quyền cao chức trọng, thì cần phải hội đủ nhiều điều kiện hơn, phải nhờ vào quần chúng nhân dân, nhờ thuộc cấp làm việc hiệu quả, nhờ quan hệ bạn bè, nhờ sếp chiếu cố, nhờ vợ con ủng hộ…Một ông sư đi bộ bao năm bỗng chốc nổi tiếng, là ngoài công phu rèn luyện bản thân còn phải đủ duyên với các yếu tố khác như nhờ có Youtube, nhờ có các Youtuber đa thành phần, hổ lốn đúng sai, nhờ TV, nhờ smartphone, nhờ những người có thời gian theo dõi và truyền tải, nhờ những người hám danh hám lợi làm tấm gương phản chiếu, nhờ có người lạy lục đu bám, nhờ có những người tin vào công đức ...v.v..và v.v. Nhưng quan trọng nhất là nhờ pháp tu khổ hạnh Dhuta (đầu đà) của các vị Tổ ngày xưa truyền lại. Tất nhiên nếu có một ông sư khác cũng tu khổ hạnh y chang như vậy, hoặc giả phẩm hạnh căn cơ tốt hơn, hoặc ăn nói hay hơn, cũng chưa chắc gây được những sự chú ý như thế. Bởi vậy mới nói là do nhân duyên khác nhau, tùy duyên tạo tác. Những bậc giác ngộ, hoặc người thấu hiểu được các nguyên lý duyên khởi, vô thường, thường chọn lối sống trí tuệ, không khoe khoang, không xưng công trạng, không dính mắc, không ngã mạn, không đề cao bản thân (vì hiểu có được là do nhân duyên), và không bám trụ vào những thứ mà người đời cho là "bất di bất dịch". Nhớ hôm gần Tết, mình hỏi đứa con "Con thấy nhiều người quỳ mọp lạy mấy tu sĩ xin rờ chân, rờ đầu, nghĩa là họ đang lạy ai ? Lạy ông sư đi bộ, hay lạy Hạnh đầu đà của Ngài Ca Diếp ? Họ lạy để được phước báu công đức, lạy để thể hiện sự tôn kính nhà sư, hay lạy vì tỉnh thức giác ngộ ? Người đến chùa chắp tay lạy một chú tiểu quét chùa, là lạy chú tiểu, lạy Tam Bảo, hay lạy chính bản thân họ ?". Đứa con sinh ở Mỹ, trả lời, làm mình ngạc nhiên !
Nhớ có lần mình được nghe một bài giảng pháp của HT Thích Thanh Từ nói về "chữ KHÔNG trong kinh Bát Nhã". Rất hay, và rõ ràng là để hiểu được chữ "KHÔNG" đó một cách đúng đắn, cần phải hiểu biết về thuyết nhân duyên. Nếu không e rằng lại nhầm lẫn giữa "emptiness" (tánh không) và "nothingness" (không có gì). Nói đến đây bỗng nghĩ đến một bài thơ xưa rất hay của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý.
Hữu không
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
(Thiền sư Từ Đạo Hạnh)
Tạm dịch:
“Có” thì hạt bụi cũng có
“Không” thì thế giới thảy đều không
Có, không, như ánh trăng dưới nước
Đừng bám hẳn vào cái có, cũng đừng cho cái không là không.
(Từ Đạo Hạnh thiền sư)
Thế nhưng trong cuộc sống thì không phải ai cũng hiểu được những nguyên lý này. Thậm chí có ông leo lên đến hàng lãnh đạo của những quốc gia hàng đầu trên thế giới, mà vẫn sáng nắng chiều mưa, đụng đâu cũng bi bô về cái tôi "vĩ đại". Thông thường thì những người đề cao bản thân thái quá, cũng là những người đổ thừa cho người khác nhiều nhất khi thất bại hoặc bị bế tắc. Họ hiếm khi biết nghĩ cho người khác, vì thực sự họ không quan tâm ai hơn cái "tôi" của họ. Một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn xa trông rộng, là người tạo được sự đoàn kết đồng lòng, chứ không phải tạo ra chia rẽ hận thù. Nhưng âu đó cũng là nhân duyên, ai cũng phải có những bài học cho riêng mình để trải nghiệm. Và quốc gia dân tộc cũng vậy, đất nước nào cũng cần phải có những "vận nước" cần thiết để học hỏi và trưởng thành. Mình nghĩ vậy. Thôi xin tạm dừng nơi đây, chúc quý anh chị và bạn hữu một ngày chủ nhật an vui hạnh phúc cùng gia đình.
PN (03/2025)