Saturday, October 18, 2025

Tản mạn ngày 17/10 ...



Hôm qua là ngày thế giới dành cho người nghèo. Ngày 17/10 hằng năm được chọn là "International Day for the Eradication of Poverty" (tạm dịch: Ngày Quốc tế xoá nghèo), không phải để kể lể về nỗi khổ, cũng không phải để làm giàu thêm lòng thương hại nhất thời, mà để nhắc nhở nhân loại nhớ rằng không ai thật sự đứng một mình trên thế gian này.

Ngày nay, những hiện tượng xã hội phân hoá và phân biệt kỳ thị đẳng cấp giàu nghèo, không còn lạ lẫm gì với thế giới nữa. Thế nhưng những câu chuyện về lòng trắc ẩn, thương cảm trước những hiện tượng xã hội đó lại là một vấn đề khác. Kết quả của những nổ lực hổ trợ nhân đạo xoá đói giảm nghèo toàn cầu hoàn toàn tuỳ thuộc vào tư duy nhận thức của con người, văn hoá vùng miền từng địa phương, sự trợ giúp từ chính phủ, chính quyền sở tại, và nhiều nguồn hổ trợ khác nhau. Ngay cả ở VN hôm nay, bước ra đường cũng thấy rõ hai thế giới song song. Một bên là những tòa nhà hoành tráng, tiệc tùng, xe sang, hàng hiệu... Một bên là những em nhỏ bán vé số, những bà cụ nhặt ve chai, những người lao động tối mặt mà vẫn không đủ ăn... Điều đáng trân quý là những năm gần đây, VN có nhiều tổ chức dân sự và đoàn thể đã tham gia một cách hiệu quả các công việc từ thiện địa phương, hổ trợ xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ nhiều học sinh và gia đình hoàn cảnh khó khăn mà không cần đến những tung hô mang hình thức phô diễn. 

Và mặc dù thiểu số, nhưng điều đau xót hơn là không ít sự giàu sang trong xã hội đã được tạo dựng trên bất công, phi pháp, còn cái nghèo thì lại rơi xuống đúng những người lương thiện. Vì vậy, nói đến người nghèo không chỉ là nói về “số phận”, mà còn nói về công bằng, đạo đức, và lương tâm xã hội. Khoảng cách giàu nghèo không chỉ là chuyện tiền bạc, mà còn là khoảng cách của lòng chia sẻ và trách nhiệm với đồng loại.



Trong đạo Phật, Đức Phật dạy từ bi đơn giản rằng "Have compassion for all beings, rich and poor alike; each has their suffering. Some suffer too much, others too little". (Tạm dịch Hãy khởi lòng từ với tất cả chúng sinh, giàu hay nghèo cũng vậy; ai cũng có nỗi khổ của riêng mình. Có người chịu khổ quá nhiều, có người chịu khổ quá ít.). 

Bởi vậy từ bi không hỏi “anh là ai”, mà hỏi “anh đang khổ ở chỗ nào”. Từ bi không đứng ngoài quan sát, mà bước tới và san sẻ trong khả năng có thể. Thực ra, ai cũng có thể trở thành người nghèo ở một giai đoạn nào đó của đời mình, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tình thương, nghèo hy vọng... Cho nên nhiều người quan niệm rằng - Giúp người không phải là một lòng tốt tùy hứng, cũng không phải mong được phước báu hay công đức gì, mà là một nghĩa vụ nhân tính căn bản. Một ổ bánh chia đôi không làm ai chết đói, nhưng có thể cứu được chỗ lương thiện cuối cùng trong một con người. Một bàn tay đưa ra đúng lúc có khi quan trọng hơn cả vạn lời thuyết giảng. Tất nhiên, thế giới này không nghèo đi vì chia sẻ, mà chỉ nghèo đi vì thờ ơ. Ngày nay có rất nhiều tổ chức thiện nguyện phi chính phủ, tập thể, cá nhân, đã không quản ngại khó khăn, hy sinh đi khắp nơi trên thế giới, vùng sâu vùng xa của nhiều châu lục, để tham gia hổ trợ các chương trình xoá đói giảm nghèo và xoa dịu những nỗi khổ của đồng loại. Thật đáng kính trọng ! 

Gần đây, chính quyền Mỹ đã yêu cầu Quốc hội giữ lại nhiều tỷ USD ngân sách viện trợ nước ngoài và huỷ bỏ hoặc đóng băng nhiều khoản đã duyệt trước. Có báo cáo rằng khoảng 83% các chương trình của USAID (khoảng 5.200/6.200 dự án) đã bị hủy sau một đợt “thanh lọc” trong 6 tuần đầu năm 2025. Các nghiên cứu cho rằng nếu tình trạng cắt giảm tiếp diễn, có thể dẫn tới hơn 14 triệu ca tử vong thêm trên toàn cầu đến năm 2030, trong đó hơn 4,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Các quỹ cứu trợ y tế, về dinh dưỡng, nước sạch và vệ sinh đã bị cắt rất mạnh. Ví dụ chương trình chống lao bị cắt 56%, chương trình nước và vệ sinh bị cắt tới 86% trong một số phân tích. Ngoài ra còn nhiều ảnh hưởng khác đến các quỹ nhân đạo & phát triển xoá đói giảm nghèo khác.

Hệ thống y tế HIV/AIDS ở các nước như Lesotho bị bứt gãy, hơn 8,000 nhân viên y tế mất việc, nhiều phòng khám đóng cửa sau các khoản viện trợ bị rút. Các chương trình cứu trợ thực phẩm khẩn cấp qua tổ chức như World Food Programme (WFP) báo cáo tình trạng khẩn cấp do thiếu quỹ, có thể ảnh hưởng tới 14 triệu người ở nhiều quốc gia vì cắt viện trợ từ các nước, trong đó Mỹ là một đóng góp lớn. Các chương trình phát triển nông nghiệp, chống biến đổi khí hậu và hỗ trợ người dân nghèo giáp ranh có nguy cơ bị thu hẹp mạnh. Câu hỏi là - USAID bắt đầu từ năm 1961, gần 70 năm qua, vì sao hôm nay có chuyện này ?

Ngắn gọn là do chính sách “America First” (nước Mỹ trước) dẫn tới yêu cầu tái xem xét viện trợ nước ngoài, cho rằng một số chương trình không còn phù hợp với lợi ích quốc gia Mỹ hoặc bị lãng phí. Có sự chuyển giao quyền điều hành viện trợ sang bộ phận khác hoặc sát nhập cơ quan. Có tin cho rằng USAID sẽ bị sáp nhập hoặc chức năng chủ yếu được chuyển cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ngân sách bị căng thẳng, phải cắt giảm trong bối cảnh thâm hụt lớn, lạm phát và chính sách tài khóa. Mặt khác, khi tranh luận về hiệu quả của viện trợ nước ngoài, một số nhà cố vấn phê bình cho rằng quá nhiều chương trình không đạt hiệu quả, quản lý kém... 

Hoặc có thể có vài lý do chủ quan khác nữa, nhưng cho dù là lý do gì, với sự cắt giảm đó của chính phủ Mỹ, sẽ có nhiều tác động đáng lo, có thể làm thụt lùi nhiều thành quả phát triển, đặc biệt ở các nước nghèo như dịch bệnh tái phát, dinh dưỡng trẻ em đi xuống, nghèo đói tăng...v.v. Hệ thống cứu trợ khẩn cấp bị suy yếu, khi thiên tai, xung đột xảy ra, khả năng phản ứng bị hạn chế hơn. Ảnh hưởng không chỉ tới các nước nhận viện trợ, mà dài hạn tới cả an ninh toàn cầu: vấn đề dịch bệnh, biến đổi khí hậu, di cư, xung đột, đều liên quan. 

Riêng đối với VN, nếu các chương trình quốc tế bị thu hẹp, thì sự hỗ trợ từ bên ngoài, vốn vẫn đóng vai trò bổ sung trong một số lĩnh vực sẽ khó khăn hơn. Mặc dù Việt Nam trong những năm gần đây đã có tốc độ phát triển nhanh và lộ trình giảm phụ thuộc viện trợ nước ngoài, nhưng vẫn có những phân khúc như vùng sâu vùng xa, điều kiện y tế, hỗ trợ nghề cho người nghèo, nơi viện trợ quốc tế đóng vai trò hổ trợ. Việc cắt giảm viện trợ toàn cầu có thể dẫn đến những hạn chế trong việc lựa chọn nguồn hỗ trợ bên ngoài cho các chương trình nhân đạo, phát triển nhỏ. Do đó, trong bối cảnh ấy, việc tăng cường nguồn lực nội địa, hợp tác giữa các tổ chức công & tư, các đoàn thể, để phát huy nội lực địa phương càng trở nên quan trọng. Thực tế các chương trình xoá đói giảm nghèo không phải chỉ dừng lại ở mức độ từng bữa ăn mà là một kế hoạch lâu dài, trồng cây gì nuôi con gì, giáo dục đào tạo, y tế cộng đồng ...v.v. Cho nên bên cạnh yếu tố con người và các chương trình trợ giúp, thì vai trò của chính quyền địa phương là vô cùng quan trọng.

Và cũng chính vì những thay đổi đột ngột như thế nên gần đây có nhiều người than vãn, trách móc, cho rằng tại sao thế giới lại có nhiều biến động như vậy. Và liệu những đổi thay đó có làm đời sống người dân nước Mỹ nói riêng, và thế giới nói chung, tốt đẹp và hạnh phúc hơn chăng? Cái này thì tuỳ vào mỗi cá nhân nhìn nhận và phân tích, bởi rất khó để có thể làm cho con người buông bỏ những thứ mà họ tin tưởng hoặc tôn thờ !

Còn nói đến sự đổi thay. Đó là chuyện tất nhiên, xưa nay vạn vật luôn thay đổi. Quy luật vô thường của vũ trụ là vậy. Sự tiến bộ của khoa học ngày nay cũng đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, có sự thay đổi làm cho tốt hơn, thì cũng có sự thay đối làm cho tồi tệ hơn. Mở ngoặc chút, đạo Phật có nói đến 3 đặc điểm căn bản nhất trong thế giới chúng ta, đó là: Vô Thường (tiếng Phạn là Anicca hay Anitya, tiếng Anh là Impermanence), Vô Ngã (tiếng Phạn là Anatta hay Anatman; tiếng Anh là Non-self), và Khổ (tiếng Phạn là Dukkha hay Duhkha; tiếng Anh là Suffering/Unsatisfactoriness). Cho nên nếu có ông nào giảng giải tràng giang đại hải hoặc lý thuyết cao siêu về đạo Phật, mà không đề cập hoặc tán đồng với 3 đặc điểm cơ bản đó thì coi chừng họ đang nói về đạo khác rồi :-). Và tất nhiên, những vị đã "chứng ngộ" được chân lý vô thường, vô ngã, thì họ đã không còn Khổ (Dukkha) nữa. Còn phe ta, những kẻ phàm phu đầy lý thuyết, đầy lý luận, đầy chức danh, đầy kinh điển, thích chứng tỏ, thích cãi nhau, thích hơn thua, thích tiếng tăm, thích đúng sai..v.v.. thì cứ mãi còn đeo lon thượng sĩ 3 gạch ....Khổ dài dài :-) .


Nhân đây mình cũng muốn nhắc lại một câu chuyện, mà chắc chắc có nhiều anh chị em đã từng đọc qua. Đó là một trong những giai thoại nổi tiếng nhất xoay quanh danh họa Leonardo da Vinci và kiệt tác “The Last Supper”. Tuy nhiên, cần nhắc lại là câu chuyện về việc Leonardo tìm gương mặt để vẽ Chúa Jesus (Giêsu) và Judas (Giuđa) chỉ là một huyền thoại dân gian, không có chứng cứ lịch sử xác thực, nhưng lại mang giá trị biểu tượng và triết lý rất sâu sắc về bản chất thiện ác trong con người.

Theo truyền thuyết, khi danh hoạ Leonardo da Vinci được giao vẽ bức “The Last Supper” (1495–1498) cho tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, ông đã quyết định tìm người thật để làm mẫu cho các gương mặt của Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ông muốn mỗi khuôn mặt phải thể hiện một trạng thái tâm hồn đặc trưng, đặc biệt là Chúa Jesus (biểu tượng của tình thương và tha thứ) và Judas Iscariot (biểu tượng của phản bội và tham lam).

Leonardo mất nhiều tháng trời để tìm được người có gương mặt thể hiện sự thanh khiết, nhân từ của Chúa Giêsu, và ông đã chọn một ca sĩ trong dàn hợp xướng nhà thờ có khuôn mặt sáng, đôi mắt hiền, gợi vẻ thánh thiện. Còn tìm hình mẫu của nhân vật Judas thì khó khăn hơn nhiều. Ba năm sau khi bức họa gần hoàn thành, Leonardo đi khắp hang cùng ngõ hẽm vẫn chưa tìm ra người phù hợp để vẽ Judas. Ông cần một gương mặt phản ánh sự sa ngã, tội lỗi, và dằn vặt của linh hồn. Sau nhiều ngày tìm kiếm, ông gặp một người tù bị kết án tử hình ở Rome, gương mặt đầy u tối, ánh mắt cay độc và tuyệt vọng. Leonardo xin phép cho người này làm mẫu để hoàn thiện gương mặt Judas trong bức tranh.

Sau khi bức họa hoàn tất, Leonardo nói lời cảm ơn người tù. Khi đó, người tù bật khóc và nói: “Ngài không nhận ra con sao? Con chính là người đã từng làm mẫu cho ngài vẽ Chúa Jesus ba năm trước đây.”

Leonardo lặng người. Câu chuyện khép lại trong im lặng, như một ẩn dụ về hai mặt của con người. Thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, có thể tồn tại trong cùng một linh hồn. Dù không có bằng chứng lịch sử xác nhận, nhưng câu chuyện này được xem là một ẩn dụ tuyệt vời về con đường tâm linh và đạo đức của con người. Con người không sinh ra là Judas hay Jesus, mà chính sự lựa chọn và những trải nghiệm trong cuộc đời khiến họ trở thành ai.

Thiện và ác không ở ngoài, mà cùng tồn tại trong mỗi người, giống như ánh sáng và bóng tối trong cùng một bức tranh. Leonardo, dù là họa sĩ, đã trở thành triết nhân qua chính cách ông khiến người ta suy ngẫm: “Trong cùng một con người có thể ẩn chứa cả thánh thiện và tội lỗi. Điều khác biệt nằm ở ánh sáng mà họ hướng về”. Thật là trùng hợp, đây cũng chính là điều mà đạo Phật nói đến, thiện ác do tâm tạo ra !

Tuy nhiên sau này, các nhà nghiên cứu nghệ thuật (như Giorgio Vasari, Kenneth Clark, hay các tài liệu của Bảo tàng Leonardo da Vinci) cho rằng Leonardo không hề dùng tù nhân hay người thật làm mẫu cho riêng Judas, mà ông thường quan sát, phác họa nhiều gương mặt ngoài đời rồi tổng hợp thành những biểu cảm tượng trưng. Câu chuyện trên xuất hiện từ thế kỷ XIX trong các tuyển tập giai thoại đạo đức Kitô giáo, chứ không có trong các ghi chép gốc về Leonardo. Tuy vậy, người ta vẫn thích kể lại câu chuyện ấy như một “ngụ ngôn về con người”, sâu sắc và cảm động, vượt xa giá trị nghệ thuật. Đó là, thiện ác, sáng tối, đều khởi đầu từ trong chính trái tim con người.

Hy vọng sau khi nước Mỹ hạn chế các chương trình viện trợ nhân đạo xoá đói giảm nghèo đối với những đất nước nghèo khó trên thế giới, thì sẽ có những cá nhân, tố chức, hoặc quốc gia khác đứng lên điền vào chỗ trống. Suy cho cùng, hơn thua không đến từ vị kỷ, và giá trị không đến từ hư danh. Mọi chuyện đều sẽ đổi thay, kể cả sự hoang tưởng !

Thân chúc tất cả một cuối tuần an vui.

PN

Sunday, October 12, 2025

Tản mạn mùa Thu ...


Hôm qua một người đồng nghiệp cũ gọi báo tin tuần tới là bắt đầu thời khắc đỉnh điểm (peak) của mùa thay lá năm nay. Hàng năm cứ vào mùa Thu, rừng thay lá. Hàng trăm ngàn người đổ về rặng núi Appalachian, nơi có cung đường Blue Ridge Parkway dài mấy trăm dặm, ngút ngàn cây lá để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mùa thu và không gian se lạnh lãng mạn của miền núi này. Ở đó cũng có một công viên quốc gia "Great Smoky Mountains National Park", một trong những công viên được nhiều người thăm viếng nhất tại Mỹ. Nhưng không phải năm nào thời gian đỉnh điểm lá đổi màu cũng giống nhau, mà sớm muộn tuỳ vào thời tiết hàng năm. Ông bạn đồng nghiệp của mình về hưu, lên núi ở ẩn, nên khi nào thấy lá vàng gần rộ thì gọi điện thoại báo tin "nội bộ" :-).

Chuẩn bị khăn gói quả mướp tuần tới chở con lên núi ngắm lá vàng, nhưng cũng có chút e ngại là hiện nay chính phủ liên bang Mỹ đang đóng cửa, nên những công viên quốc gia thường không được bảo vệ, dọn dẹp chăm sóc sạch sẽ, khi nhân viên nghỉ việc. Sáu, bảy năm trước gì đó, nhiệm kỳ trước của ông tổng thống này, cũng từng đóng cửa chính phủ mấy tuần, chuyện đi lại không thuận lợi lắm. Chuyện chính phủ Mỹ đóng cửa thì cũng không lạ gì, chỉ là xảy ra thường xuyên hơn trong những thập niên gần đây. Chứng tỏ là càng ngày cái "ngã" của các ông bà quốc hội càng to hơn, phân hoá hơn, hoặc là càng ngày khả năng lãnh đạo của cái ngài yếu kém hơn, hoặc có thể là "công nghệ" đổ thừa ngày càng phát triển phong phú hơn..v.v.. Dù là nguyên nhân gì, nhiều người không hiểu việc thì cho rằng nước Mỹ nghèo quá hết tiền nên đóng cửa; người thông thái hơn chút thì cho là nước Mỹ phân hoá, quốc hội cãi nhau bất phân thắng bại, cần đóng cửa để lấy sức cãi tiếp. Người "rành rẽ" chính trị chính em hơn chút nữa, thì phân tích bên nọ bên kia, đổ lỗi cho bên nào mà họ không thích, còn nội tình đúng sai thì cứ trích dẫn, căn cứ theo trên mạng, Facebook, Youtube, TV cánh tả, cánh hữu, đủ cả... Bên nào thì coi báo đài & TV bên đó, rồi cũng dẫn chứng phân tích đàng hoàng :-). Riêng thành phần dân đen như mình, thì không thích chính phủ đóng cửa, vì có quá nhiều thứ bất tiện. Mình vốn quan niệm "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", chứ không phải cốt để cãi nhau, thách thức, trả thù, và đổ lỗi cho nhau, rồi cuối cùng tuồng nào cũng trở lại tuồng nấy.... Biết rồi, khổ lắm, nói mãi ..:-) 

Thôi mùa Thu rồi, nói chuyện gì nhẹ nhàng lãng mạn chút. Nhắc đến mùa Thu ở Blue Ridge Parkway, nơi được mệnh danh là “dải lụa vàng của miền Đông nước Mỹ”, thì có lắm chuyện để nói. Khi tháng 10 vừa sang, gió từ miền núi Appalachian bắt đầu se lại, mang theo hơi lạnh dịu dàng của mùa thu. Con đường Blue Ridge Parkway, dải lụa xanh nối liền những ngọn núi chập chùng của North Carolina, Virginia, cũng bắt đầu khoác lên mình chiếc áo mới. Cả không gian như được vẽ lại bằng bảng màu của thời gian, vàng ươm, đỏ thắm, cam rực rỡ, và đôi chỗ vẫn còn chút xanh cuối hạ.

Từng chiếc lá như những ngọn lửa nhỏ run rẩy trong gió, cháy lên lần cuối trước khi rơi về lòng đất. Ánh nắng thu nghiêng nghiêng, xuyên qua tán lá phong, rắc xuống mặt đường những vệt sáng vàng óng như mật ong. Trên triền núi xa, sương mờ giăng nhẹ, khiến cho từng đường cong của dãy Blue Ridge trở nên mềm mại và mơ hồ, như một bức tranh thủy mặc đang tan dần vào hư vô.

Đi trên con đường ấy, người ta có cảm giác như mình đang bước giữa một giấc mơ, nơi thiên nhiên và tâm hồn gặp nhau. Tiếng bánh xe lăn êm trên mặt nhựa lạnh, tiếng gió luồn qua mái tóc, tiếng lá khẽ rơi như lời thì thầm của đất trời. Mỗi khúc quanh của con đường lại mở ra một bức tranh khác, một góc nhìn khác của mùa thu, khi thì rực rỡ như lễ hội, khi thì trầm lắng như bản nhạc cổ xưa.

Ở độ cao hơn 5.000 feet, không khí trong lành đến mức có thể cảm nhận được mùi nhựa cây, mùi đất ẩm và hơi nước từ thung lũng bốc lên. Đứng nhìn xuống từ Linn Cove Viaduct, những đám mây trắng trôi lững lờ dưới chân, khiến con người bỗng thấy mình thật nhỏ bé, như đang đứng giữa ranh giới của trời và đất. Mùa thu ở Blue Ridge Parkway không chỉ đẹp ở cảnh sắc, mà còn đẹp ở sự tĩnh lặng. Giữa một thế giới ồn ào và vội vã, nơi đây giống như một thiền viện không mái, nơi người ta có thể nghe thấy chính nhịp thở của mình, thấy lòng mình lắng xuống cùng tiếng gió rừng. 

Có người nói rằng, mỗi chiếc lá rơi là một bài kinh của đất trời. Nếu ta chịu dừng lại và lắng nghe, ta sẽ hiểu rằng mùa thu không phải là mùa của tàn phai, mà là mùa của trở về, trở về với sự giản dị, trong trẻo và chân thật nhất của cuộc sống. Trên con đường uốn quanh giữa mây trời ấy, khi ánh chiều rơi xuống, sương bắt đầu phủ mờ dãy núi xa, có lúc mình từng nghĩ - Blue Ridge không chỉ là một con đường, đó là một hành trình của tâm hồn. Một hành trình trở về sau những nhọc nhằn, muộn phiền, dính mắc hơn thua giữa cuộc đời ô trọc !


Nhớ hồi còn nhỏ học Kiều, nghe Nguyễn Du nói đến cụm từ "màu quan san" (Người lên ngựa kẻ chia bào. Rừng Phong thu đã nhuốm màu quan san). Thấy hay quá, mặc dù không biết màu quan san là màu gì. Nhưng sau đó biết đoạn thơ này Nguyễn Du tả cảnh ly biệt của Thúc Sinh với Kiều, để về xin Hoạn Thư cưới Kiều làm vợ bé, thì thấy lo cho số phận của Kiều và cả Thúc Sinh, nên thấy thơ không còn hay nữa :-). Mãi cho đến khi đến Blue Ridge ngắm lá vàng, mình mới thực sự cảm nhận được "màu quan san". Tương tự, hồi nhỏ đọc "Tiếng Thu" của ông Lưu Trọng Lư, thấy hay quá, đẹp quá, nhưng chỉ là tưởng tượng , chứ ở quê mình làm gì có chuyện thấy "Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô" ? Cũng không biết ngày đó ông LTL thấy cảnh này ở đâu, chứ thời đại VN mình bây giờ, lâm tặc thợ săn đầy rẫy, chuyện thấy được con nai vàng ngơ ngác dẫm trên lá khô, hầu như không tưởng. Nhưng ở xứ này thì có, không những có, mà lại có nhiều, nhất là vào mùa Thu kéo dài cho đến tháng 2 dương lịch.

Nói vậy, nhưng có một ký ức mùa Thu của VN vẫn còn đọng mãi trong tâm thức của mình. Đó là mùa Thu của Thanh Tịnh trong bài "Tôi đi học". Mà mình chắc chắc có rất nhiều anh chị em cũng có cùng tâm trạng như mình khi nhắc đến ngày khai trường của nhà văn Thanh Tịnh. Nếu mùa Thu trên Blue Ridge Parkway của nước Mỹ là bản nhạc trầm hùng của đất trời, rực rỡ, rộng lớn và tĩnh tại. Thì mùa Thu trong “Tôi đi học” của Thanh Tịnh lại là khúc dạo nhẹ nhàng của tâm hồn, êm đềm, tinh khôi, và chan chứa cảm xúc đầu đời.

Trong "Tôi đi học", mùa Thu hiện lên qua cái se lạnh đầu mùa, qua đám mây bàng bạc, qua con đường làng đầy lá rụng, qua tiếng gọi ríu rít của lũ học trò và nụ cười hiền của người mẹ dắt con đến lớp. Đó là mùa Thu của nỗi bỡ ngỡ, trong sáng và ngây thơ. Mỗi chiếc lá vàng rơi, mỗi cơn gió nhẹ thoảng qua đều gợi trong cậu bé Thanh Tịnh một cảm xúc khó tả, vừa háo hức, vừa lo âu, vừa bâng khuâng khi bước vào ngưỡng cửa đầu tiên của cuộc đời học trò.

“Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.”

Mùa Thu trong văn Thanh Tịnh gắn liền với ký ức và tâm hồn người VN, một thứ mùa Thu làng quê, nồng hương lúa mới, thoang thoảng khói rơm, gió heo may và ánh nắng vàng nhạt. Nó không ồn ào, không lộng lẫy, mà thấm vào tim người đọc bằng sự dịu dàng và nhân hậu của đời sống. Và cũng nhờ chính những hạt giống tâm hồn đó, đã trở thành chất liệu tinh thần nuôi sống những năm tháng nhọc nhằn thời niên thiếu của mình. Sau năm 1975, thời bao cấp, mỗi lúc tới ngày tựu trường, nhìn cảnh cha mẹ đôn đáo lo toan cái ăn cái mặc, quyển vở cây bút, chứng lý lịch, chuyển hộ khẩu cho con, mình chạnh lòng vô cùng. Thời kỳ đó, hằng năm cứ vào cuối thu, không còn "lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường", mà là "lòng tôi trĩu nặng vì những lo lắng nhọc nhằn của mẹ cha...". May mắn là thời gian đó rồi cũng đã qua đi. Mong rằng thế hệ trẻ ngày nay luôn được sống hồn nhiên vô tư, náo nức chào đón ngày khai trường như mình thưở nào. Tất nhiên là cho dù ở đâu, bất kỳ quốc gia nào, tuổi thơ cũng xứng đáng được thương yêu, được nuôi dưỡng trong một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, tự do phát triển với tâm hồn cao thượng; chứ không phải lo lắng sợ hãi bị phân biệt đối xử, và bị đầu độc bởi những tư tưởng chia rẽ hận thù. Đó cũng niềm mơ ước lớn lao nhất của bao bậc phụ huynh trên trái đất này.



Thanh Tịnh đã dùng mùa Thu như một chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Chỉ cần một ngọn gió heo may, một con đường làng ngập lá vàng, một buổi sáng se lạnh… là ký ức “ngày đầu tiên đi học” lại ùa về trong tâm tưởng mỗi người. Cái không khí của mùa Thu trong văn ông thấm đẫm hương vị dịu nhẹ của làng quê VN, có sương giăng, có nắng vàng nhạt, có hơi đất ẩm, có bàn tay mẹ dắt con đi qua con đường quen thuộc, giữa bao đôi mắt ngập ngừng và những trái tim lần đầu biết rung động vì một điều mới lạ. Trong khi đó mùa Thu ở Blue Ridge Parkway lại là mùa của suy tưởng và chiêm nghiệm. Giữa không gian núi rừng hùng vĩ, sắc đỏ và vàng như hòa vào tầng mây xanh biếc, con người bỗng cảm thấy nhỏ bé, nhưng cũng tự do hơn, sâu lắng hơn. Ở đó không còn tiếng trống trường, không có bàn tay mẹ dắt đi, mà chỉ còn tiếng gió và hơi thở của chính mình. Có những lúc dừng chân trên đèo Blue Ridge Parkway, mình miên man nghĩ về những mùa Thu đã qua đi. Nếu mùa Thu VN của Thanh Tịnh là mùa bắt đầu hành trình tri thức, thì mùa Thu nước Mỹ là mùa con người trở về với nội tâm, như một cái học khác, học cách lặng yên để thấy mình.

Hai mùa Thu ấy, một bên là sự khởi đầu, một bên là sự dừng lại. Một bên là tiếng cười trẻ thơ, một bên là tiếng gió của thiền định. Nhưng cả hai đều gặp nhau ở một điểm chung, sự tĩnh tại nội tâm của con người. Dù là một đứa trẻ cắp sách đến trường hay người lữ khách đang đứng trên núi cao, bỗng chợt nhận ra một khoảnh khắc vẻ đẹp mong manh mà sâu thẳm trong cuộc sống. Có lẽ, chính vì thế mà mùa Thu luôn khiến lòng người lắng lại. Dù ở miền quê VN hay trên đỉnh núi Appalachian Mountains, mùa Thu vẫn là mùa của tâm hồn, mùa nhắc ta nhớ mình đã từng bắt đầu trong sáng biết bao, và cũng dạy ta biết dừng lại để lắng nghe chính hơi thở của đất trời và của chính mình.

Thôi lan man chút về mùa Thu. Thân chúc tất cả các anh chị em, băng hữu một cuối tuần an vui .

PN

Saturday, October 04, 2025

Tản mạn: Tìm gì, ở đâu ?

 


Mới đó đã mùa Thu. Ngoài đường đã bày bán bí đỏ bí ngô, hoa cúc, đủ loại, đủ màu đủ sắc. Tuần rồi, có vợ chồng đứa em quen ở VN qua FL, ghé thăm. Thấy mấy chậu cúc "mâm xôi" ở nhà mình, hỏi thăm chưa tới Tết sao cúc đã trổ hết rồi ? Bên này cúc nở vào mùa Thu, chứ không phải mùa Xuân như ở VN. Mỗi nơi xuân về sẽ có những loài hoa trái khác nhau. Cho nên nếu hồi đó 3 ông Trịnh, Lâm, Ngân, mà ở Tây ở Mỹ thì bây giờ không có câu ca bất hủ " Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Tuỳ duyên là vậy :-).

Tán gẫu chuyện thời sự bên Mỹ cũng vậy, ông tổng thống hiện tại lên ngôi cũng được chục tháng rồi, chưa kể là trước đây ông cũng từng làm qua 4 năm tt nữa. Nên ít nhiều thì người ta cũng được nhìn thấy người thật việc thật, cảm nhận, hiểu biết thêm về tài năng lãnh đạo, và đạo đức tư cách của con người ông. Mình không muốn bàn đến chuyện tốt xấu, đúng sai ở đây, bởi mỗi người đều có tư duy, hiểu biết, và cái nhìn riêng biệt để suy luận. Ai cũng có quyền diễn đạt tư tưởng cá nhân, ai cũng có quyền chọn lựa đức tin cho riêng mình, và ai cũng cần có trách nhiệm với bản thân về sự chọn lựa của họ. Có điều mình tưởng rằng trong cuộc sống hàng ngày, một khi thiên hạ thấy biết một điều gì đó rõ ràng hơn, thì họ sẽ ít tranh cãi hơn. Giống như đã được thấy con voi rồi, thì không cần tranh cãi với nhau bộ phận nào to nhất nữa. Thế nhưng thực tế không phải vậy, nhìn lại cuộc sống chung quanh, những cuộc tranh cãi vẫn còn cứ tiếp diễn, sôi nổi và nóng bỏng. Tin thật tin giả, chính thống, nổi trôi, nửa gà nửa vịt, vẫn cứ đầy rẫy khắp nơi, trên mạng, quán cafe, quán nhậu, vũ trường, và ... quốc hội :-) .

Đôi khi mình cũng thắc mắc, cuối cùng thì con người thực sự tìm kiếm điều gì, và tìm ở đâu ? 

Có một nghịch lý tồn tại trong đời sống nhận thức của con người, đó là ai cũng nói rằng mình yêu chân lý, nhưng khi sự thật hiện ra, không phải ai cũng đủ can đảm để đối diện với nó. Bởi lẽ, con người thường không tìm kiếm sự thật, mà chỉ tìm kiếm điều gì khiến họ cảm thấy dễ chịu, an toàn, hoặc phù hợp với niềm tin sẵn có của mình.


Trong sâu thẳm tâm lý, mỗi người đều có một “bản đồ” về thế giới, một hệ thống niềm tin, định kiến, và kinh nghiệm được tích lũy qua thời gian. Khi đứng trước một thông tin hay hiện tượng mới, người ta thường vô thức so sánh nó với "bản đồ" ấy. Nếu nó khớp, ta dễ dàng chấp nhận; nếu nó trái ngược, ta lập tức phản bác, thậm chí né tránh. Chính điều đó tạo nên hiện tượng mà các nhà tâm lý học gọi là “thiên kiến xác nhận”. Con người có xu hướng chỉ tin những gì củng cố cho quan điểm của mình, thay vì thử thách nó bằng sự thật.

Nhìn quanh đời sống xã hội, ta thấy điều này diễn ra ở khắp nơi. Trong các cuộc tranh luận, người ta không lắng nghe để hiểu, mà lắng nghe để phản biện. Trong việc học hỏi, nhiều người chỉ chọn đọc những gì mình đã tin, và gạt bỏ những gì khiến mình phải suy nghĩ lại. Thậm chí trong tôn giáo, khoa học hay chính trị, sự thật đôi khi không phải là điều được tôn vinh cao nhất, mà là một "phiên bản của sự thật" phù hợp với số đông, với quyền lực, với "dao to búa lớn", hoặc với cảm xúc của con người.

Thế nhưng, sự thật thì không cần ai tin để trở thành sự thật. Nó tồn tại độc lập với niềm tin của chúng ta. Sự trưởng thành trong nhận thức bắt đầu khi con người dám đặt câu hỏi cho chính mình như : Điều ta đang tin có thật là đúng không ? hay ta chỉ tin vì nó khiến ta thấy dễ chịu? hay ta tin vì bạn bè ta tin như vậy ? hay ta tin vì ông giáo sư tiến sĩ kia nói vậy ? hay ta tin vì ông sếp ta cũng tin như vậy? hay ta tin chỉ vì quyền lợi? hay ta tin chỉ vì muốn chứng tỏ ..v.v..và ..v.v.

Thông thường người trí tuệ không tìm sự dễ chịu, mà tìm sự thật, dù đôi khi nó cay đắng, cô độc, hoặc khiến họ phải từ bỏ những điều đã từng nâng đỡ hoặc đem lại quyền lợi cho họ trước đây. Đức Phật cũng từng dạy rằng: “Đừng tin vì nghe truyền lại, vì thấy hợp lý, hay vì người đáng kính nói ra. Hãy tự mình quán chiếu để thấy đó là sự thật.” Câu nói ấy không chỉ là lời khuyên cho người tu hành, mà cho mọi ai muốn sống thật với chính mình. Bởi chỉ khi ta dám nhìn thẳng, vượt qua cái tôi và định kiến, ta mới có thể chạm đến điều chân thật trong thế giới, và trong chính lòng mình.

Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng của thế giới, cho rằng sự thật không nằm ở một hệ thống tri thức tuyệt đối bên ngoài, mà ở sự đối diện trung thực với chính vô thức của con người. Ông nói con người không thật sự “tìm kiếm sự thật”, mà chỉ đi tìm những hình ảnh giúp họ duy trì cảm giác an toàn trong tâm hồn. Phần lớn chúng ta sống trong thế giới của ảo tưởng bản ngã (ego), tự cho rằng mình hiểu biết, trong khi những động lực sâu xa của hành vi lại nằm trong vô thức tập thể (collective unconscious), nơi chứa các biểu tượng, nguyên mẫu và bản năng nguyên thủy.

Với Jung, “sự thật” không chỉ là điều được lý trí công nhận, mà là sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức, giữa cái mà ta tin và cái mà ta sợ. Con người chỉ thực sự chạm đến chân lý khi dám đối diện với “bóng tối” của mình, tức phần tâm lý bị che giấu, bị chối bỏ,  và dung hòa nó vào cái toàn thể. Ông từng nói: “Con người không được soi sáng bằng cách tưởng tượng ra ánh sáng, mà bằng cách làm cho bóng tối trở nên có ý thức.” Vì thế, với Jung, sự thật không phải là điều ta tìm thấy bằng tri thức, mà là điều ta trở thành khi dám nhìn sâu vào chính mình.


Từ xa xưa đến nay, trong cuộc sống hàng ngày luôn có những dị biệt, từ chuyện to đến chuyện nhỏ, từ thế giới quan cho đến nguyên tắc sống. Nguyên nhân không phải chỉ dừng lại ở sự khác biệt về trình độ, kiến thức, tôn giáo, hoàn cảnh ..... Mà thực chất là ở cái nhìn phiếm diện và cách hiểu chủ quan của từng người. Ví dụ như những năm gần đây, quan sát hiện tượng phân hoá và xung đột mâu thuẩn chính trị ở những nước dân chủ văn minh như Mỹ khiến người ta ngao ngán và thất vọng. Có lúc băn khoăn không biết ai nói đúng ai nói sai, hay là cả các bên đều nói dối, hay mạnh ai nấy hiểu, hiểu sai sự thật từ một vấn đề chung. Rồi dẫn đến bên nói gà, bên nói vịt, ai cũng cho mình tài, mình đúng :-) ? Thực ra cái căn bệnh "ta luôn đúng" này, thì vô cùng khó trị. Đó là căn bịnh ung thư đã di căn của nhân loại, không chừa một ai !

Theo thiển ý của mình, sự thật không bao giờ thuộc về kẻ cố bảo vệ quan điểm, mà thuộc về người đủ khiêm nhường để lắng nghe, đủ can đảm để thay đổi. Cho nên một số người thực hành sống tỉnh thức (mindfulness) thường cho rằng - chân lý không nằm trong sự khẳng định, mà nằm trong sự thức tỉnh ! 

Viết tới đây, bỗng nhớ đến một người, đó là Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (xin lưu ý, cái danh Thượng Sĩ này hình như là do vua Trần Thánh Tông kính trọng gọi Ngài, chứ không phải giống danh xưng "vô thượng sư" nghen :-). Nôm na, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (TTTS) là anh ruột của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn.  Ngài cũng vừa là bác họ, vừa là cậu, vừa là Thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông (người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm của VN sau này).  


Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, từng là một danh tướng, không xuống tóc quy y, không sống theo thân phận hoàng tộc, mà chọn con đường hòa mình vào đời sống bình dị, gần gũi với dân gian, nhất là với những người dân chài ven biển. Ở giữa đời thường, Ngài vẫn sống một cách tự tại, thong dong, dùng trí tuệ và tâm từ để chỉ dạy cho người đời. Chính vì vậy, nhiều người xem Ngài là một bậc giác ngộ giữa cõi nhân gian, người đã chứng đạo mà vẫn không rời thế tục.

Vua Trần Thánh Tông, vốn am hiểu sâu sắc giáo lý Phật giáo và hết sức cẩn trọng trong việc giáo dục con cái, rất kính trọng Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính nhà vua đã giao phó việc chỉ dạy thái tử Trần Nhân Tông cho Ngài, vị thầy vừa là người thân trong hoàng tộc, vừa là bậc đắc đạo giác ngộ, không màng danh lợi. Nhờ được dẫn dắt từ thuở nhỏ trong tinh thần ấy, sau này Trần Nhân Tông mới có thể vừa là một minh quân, vừa là một thiền sư khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo và đời.

Đến ngày nay, nhiều bậc thiền sư hiện đại như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ... vẫn thường trích giảng các bài pháp kệ trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục”, xem đó là những viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng Thiền học Việt Nam. Không chỉ là những lời dạy về đạo, mà trong đó còn phản chiếu tinh thần nhân văn, trí tuệ và lòng từ bi của người Việt thời Trần, thời đại mà Phật pháp, văn hóa, và lòng yêu nước hòa quyện làm một.

Thời kỳ ấy không chỉ có những pháp thoại và thiền kệ sâu xa, mà còn đầy ắp những câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy sinh, tình yêu, và khí phách ngút trời của một dân tộc nhỏ bé ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, đế quốc hùng mạnh từng chinh phục cả Á – Âu.

Điều đáng tiếc là cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một tác phẩm văn chương hay điện ảnh thật xứng tầm để tái hiện trọn vẹn vẻ đẹp tinh thần của thời đại huy hoàng ấy, thời của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Hưng Đạo, và Trần Nhân Tông... Trong khi đó, trên các kênh truyền hình đại chúng, phim dã sử và anh hùng giả tưởng của Trung Quốc, Hàn Quốc lại tràn ngập, khiến khán thính giả VN càng thêm khát khao được nhìn thấy hào khí Đông A của chính dân tộc mình được sống dậy trên màn ảnh.

Trở lại chuyện hành trình đi tìm "sự thật", Tuệ Trung Thượng Sĩ từng dạy:

“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.”

(Tạm dịch: Hãy soi lại chính mình, đó là việc lớn lao nhất đời người, đừng mong ai khác chỉ cho mình thấy sự thật.)

Sự thật vốn không xa. Nó nằm ngay trong từng hơi thở, từng ý nghĩ, từng hành động. Nhưng bởi con người ưa tìm kiếm ở ngoài, nên càng tìm càng xa. Ta đọc sách, nghe giảng, chất chứa tri thức… mà ít khi dừng lại để lắng nghe sự thật trong chính tâm mình. Cái "biết" càng nhiều, thì cái "thấy" lại càng bị che lấp. Càng cố chứng minh rằng mình đúng, ta càng đánh mất khả năng nhìn thấy điều đang là !

Có nhiều người cho rằng những bậc trí tuệ không sợ sự thật, vì họ hiểu rằng sự thật không đến để làm tổn thương, mà để giải thoát. Còn những kẻ chấp ngã thì sợ, vì sợ mất đi cái khung hiểu biết quen thuộc, sợ rằng nếu một ngày nhận ra mình sai, thì mình là ai? Nhưng chính khoảnh khắc ta chịu buông cái sai ấy, cũng là lúc chân tâm bừng sáng, như mây tan để mặt trời hiển lộ. Ngài TTTS cũng từng dạy cho vua Trần Nhân Tông “Phật là tâm ông, ngoài tâm không có Phật. Tìm sự thật cũng vậy, ngoài tâm không có sự thật. Nếu tâm ta bị khuấy động bởi ưa ghét, thương giận, thì sự thật liền bị nhuộm màu theo cảm xúc ấy. Khi tâm lặng, sự thật tự hiển. Không cần tìm, cũng chẳng cần hiểu, chỉ cần thấy."

Nhớ ngày xưa, mình đã từng đọc những phần này. Đọc tới đọc lui, rồi nghi ngờ tự hỏi: Chân lý cao siêu lại có thể đơn giản đến thế sao?

Giờ thì đã lang bạt tha phương mấy chục năm, lăn lộn với cơm áo gạo tiền, tiêu nhiều hơn muối (mà cũng có lúc muối nhiều hơn tiêu 😊). Quay trở lại, cũng đọc những chuyện ngày xưa ấy, lại thấy… không còn gì để nghi ngờ nữa. 

Thế nhưng, lâu lâu mở YouTube, xem TV, nghe tin vịt, thấy người ta cãi lộn lung tung, vu khống, chụp mũ bên nọ bên kia trên mạng … thì tâm vẫn chưa thể "lặng" được. Rồi tự nhủ - Có lẽ con người thường đi tìm điều mình muốn nghe, chứ không tìm điều mình cần thấy. Mà chân lý sự thật thì vốn không sinh ra để làm vừa ý ai. Nó chỉ chờ một tâm hồn đủ tĩnh lặng để lắng nghe, đủ can đảm để buông bỏ cái biết cũ, và đủ khiêm nhường để nói là ... tôi chưa biết :-).

Thực tế thì đến một lúc nào đó, trí óc ai cũng trở nên già nua. Quy luật sinh, lão, bệnh, tử của vạn vật, chẳng ai tránh khỏi. Mình cũng vậy, có những lúc nhớ được một điều gì đó rất hay, nhưng lại không nhớ là đã từng đọc ở đâu, hay nghe ai giảng dạy. Ráng lục lọi ký ức mãi, không hình dung được, rồi lại bật cười: “Nhớ chi cho mệt. Ai nói thì cũng vậy thôi. Ông Phật, ông Chúa, ông xe ôm, ông vô gia cư, ông sư thầy, bà tiến sĩ giáo sư, hay một kẻ nghèo hèn khốn khổ nói, thì có gì khác nhau đâu ? Thực tế thì ai cũng có thể dạy mình !"

Quả nhiên là vậy, bằng cấp, vật chất, hay địa vị xã hội không bảo đảm được một trí tuệ (wisdom) thực sự, nhất là trong hành trình kiếm tìm sự thật của bản thân. Nhớ mang máng có ai đó đã từng dạy rằng: “Tìm kiếm sự thật không phải là gom nhặt thêm hiểu biết, mà là gột bỏ những lớp hiểu biết sai. Tu không phải là chạy ra ngoài tìm Phật, mà là trở về soi sáng tự tâm. Tu cũng không phải để trở thành, mà là để trở về. Một người có thể học cả ngàn kinh điển, mà vẫn chưa bước được một bước trên đường giác ngộ. Nhưng khi tâm đã an nhiên, lời và ý đều rơi rụng, thấy vạn vật như nó đang là, thì chỉ còn lại sự sáng biết (tánh biết) lặng lẽ. Lúc ấy, sự thật không còn là điều phải tìm, mà chính là ta đang sống trong nó, như con cá bơi trong nước, đâu cần hỏi nước ở đâu.”

Và mỗi lúc nhớ đến những lời dạy đó, mình thường nghĩ rằng - Đấy, chuyện chỉ đơn giản như vậy thôi, mà cả mấy ngàn năm qua, bao nhiêu kinh sách, bao nhiêu tông phái, bao nhiêu ông này bà nọ ...vẫn loay hoay đi tìm sự thật chưa ra, huống chi là kẻ phàm phu tục tử như mình :-). Mà quả nhiên là sự thật chưa từng ở đâu xa, chỉ vì ta không chịu nhìn vào chính mình, mà chỉ mải mê tìm kiếm hoặc chờ đợi từ nơi khác !

Và cũng biết đâu, trong câu chuyện Nỏ Thần của An Dương Vương – Triệu Đà ngày xưa, khi cụ Rùa Vàng (Thần Kim Quy) nói “Kẻ thù đang ở ngay sau lưng nhà ngươi", đó không chỉ là lời cảnh báo cho một vị vua, mà còn là thông điệp gửi lại cho hậu thế.

Bởi kẻ thù thật sự của con người không phải lúc nào cũng mang gươm giáo hay mưu mô, mà chính là những ảo giác, vọng tưởng và chấp niệm ta mang theo trong chiếc ba lô của hành trình cuộc đời mình. Chứ cũng chẳng phải lúc nào cũng có Trọng Thủy hay Mỵ Châu nào đó đâu. Chỉ có ta, với chính những bóng hình trong tâm tưởng mình. Tự biên tự diễn, vừa là người lữ hành, vừa là kẻ tự giăng bẫy rãi đinh trên đường đi 😊.

Thôi, lan man chút cho vui. Giờ đến lúc dọn vườn quét lá rồi. Chúc quý bằng hữu một cuối tuần an vui, hạnh phúc và tĩnh tại . 

PN
10/2025

Sunday, September 14, 2025

Tản mạn - Sân ga và những đoàn tàu ....

 


Hôm rồi ngồi kiếm vé xe lửa đi miền Trung chiều cuối năm. Thằng bạn thắc mắc hỏi: "thời buổi này người ta đi máy bay, xe hơi, chứ mấy ai còn đi tàu lửa ?" Thực ra cũng không nhớ là bắt đầu từ bao giờ, mình rất thích đi xe lửa và luôn có ấn tượng sâu sắc về sân ga & đoàn tàu. Có thể là lần đầu một mình rời làng quê cũng trên chuyến tàu lửa chăng ? Hay là thời còn đi học, những ngày bao cấp đói nghèo, những chuyến "phượt" ngang dọc trên những đoàn tàu chen chúc, cũ kỹ? Đến khi ra nước ngoài đi học đi làm, mình cũng khoái đi xe lửa. Nhớ hồi còn làm việc bên London, cuối tuần thường xuyên bắt xe lửa từ Wimbledon hoặc St Pancras chạy qua Gare du Nord bên Tây, ghé quận 13 ăn món VN, la cà cafe sửa đá, nghe nhạc Cung Tiến, Ngô Thuỵ Miên, TCS, Phạm Duy ...Ở châu Âu, đi EuroStar vừa tiện ích ngắm cảnh trời mây non nước, mà hút thuốc cũng dễ dàng :-). Sau này về VN làm việc, thì không cần phải đi đâu xa để nghe nhạc và ăn bún, ăn phở nữa. Nhạc thì karaoke của hàng xóm, kẹo kéo của đường phố đủ để đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết. Thức ăn ở VN thì thôi khỏi bàn, chỗ nào cũng có đặc sản, con nào nhúc nhích được là "tươi sống". Thế nhưng, mình lại càng thích đi tàu lửa, đi để yên tĩnh, đi để đọc một cuốn sách, hay đi để suy tư một điều gì đó, hoặc có lúc chỉ đơn giản là đi để mà đi, chứ không phải đi để mà đến. Tối lên ga Hoà Hưng, làm vài lon bia hay chai rượu, con mực khô, dĩa lòng cánh gì đó, nghe nhạc, suy nghĩ mông lung, chợp mắt chút đã đến nơi rồi. Về quê cũ, gia đình không còn ai ở đó. Mượn chiếc xe máy của bạn bè chạy lòng vòng, lên núi xuống biển, thắp cây hương, ăn tô bún, làm vài chén bánh bèo gì đó. Tối về thị xã, rủ vài đứa bạn ra bờ sông ngồi vỉa hè, lai rai ngắm trời ngắm mây ... rồi đi. Vậy mà thấy vui !

Nôm na là những hình ảnh cũ của sân ga và đoàn tàu vẫn còn lưu luyến và dính mắc. Sân ga buổi sáng mờ sương, những dãy ghế dài còn vương hơi lạnh đêm qua. Người chờ tàu cầm trong tay tấm vé nhỏ, ánh mắt luôn hướng về đường ray như mong một tín hiệu báo tin quen thuộc. Từ xa, tiếng còi tàu ngân dài, âm thanh vừa dứt khoát vừa nôn nao, như nhắc nhở ai đó sắp bắt đầu một hành trình mới. Mỗi toa tàu như một ngôi nhà nhỏ, chở theo bao nhiêu mảnh đời, người đi xa học hành, lam lũ mưu sinh, người về quê thăm mẹ, người lặng lẽ ra đi mang theo những ngậm ngùi. Lên tàu, khung cảnh trôi qua không ngừng, đồng lúa bát ngát, sông núi mênh mang, làng quê nép mình dưới mái khói lam chiều... Sân ga cũng là nơi chứng kiến biết bao cuộc tiễn đưa, đoàn tụ. Những nụ cười xen lẫn giọt nước mắt, cái nắm tay níu lại phút cuối, hay cái ôm vội vã trước khi bước lên tàu. Mỗi lần tàu lăn bánh, khoảng trống ở sân ga lại rộng ra, để lại dư âm xao xuyến trong lòng người ở lại. Đôi lúc có cảm giác như nó đang nhắc nhở ta về hành trình đời mình, luôn gắn liền với những khởi đầu và sự trở về.

Có một nhà thơ miền Trung mà mỗi lúc nhắc tới sân ga là nhớ tới ổng. Đó là Vũ Hữu Định, tác giả của bài thơ "Còn chút gì để nhớ" mà nhạc sĩ PD phổ nhạc. Nhà ông ở gần ga nên có duyên nợ với những hành trình lang bạt. Ngày xưa mình rất thích bài thơ "Kẻ ở lại" của ông, cũng nói về ga & tàu, nhưng nghe rất "thiền". Và cũng chính sân ga & đoàn tàu đó, sau năm 75 lại trở thành một nỗi khát vọng của ông (Đêm nghe còi tàu). Thơ ông có nhiều uẩn khúc, rất đời thường, còn chuyện hay dở, thưởng thức được là tuỳ vào tâm trạng và hoàn cảnh của riêng mỗi người. 

Thời còn đi học, mình thường đi lang thang đây đó. Có lần đi "phượt bụi" với một ông bạn hiền ở SG. Ra tới Nha Trang là đã hết tiền, chỉ còn đủ mua vài trái xoài và vài xị rượu đế, uống để say rồi ngủ, chờ đến ga nào đó xuống. Đến ga gà, hai đứa leo xuống, vì nhảy tàu nên không có vé ra cửa. Tường rào sân ga có một cái lỗ "nhân tạo" để mấy người buôn lậu chui ra vào. Mình kêu anh ra bằng ngõ đó. Ông bạn mình thuộc loại gốc "tư sản mại bản" chính hiệu, nhất định không chịu hạ mình như thế. Mình nói - vậy anh ở lại đi tui đi trước nghen. Cuối cùng anh cũng ấm ức chui ra theo :-).

Rồi thời thế mấy chục năm không gặp. Khi mình trở lại VN, anh đã trở thành một đại gia tên tuổi. Lần đầu tiên gặp lại, anh kêu lính lác bạn bè đông đủ đế giới thiệu mình với họ. Câu đầu tiên anh giới thiệu với thiên hạ là: "Đây là người đầu tiên dẫn tui chui lỗ chó, và đó cũng là lần duy nhất". Mình cười hì hì - " Biết đâu nhờ lần chui "lỗ chó" đó mà ngày nay anh mới trở thành đại gia ?". Âu đó cũng là duyên, thoáng chốc đã qua mấy chục năm rồi, nhanh thật.

Mà chắc là mình cũng có duyên nợ gì đó với ga tàu, cứ lâu lâu lại có chuyện liên quan đến nó. Mình vốn quen một anh bạn VK, rất am tường về PG, đặc biệt là tình hình PG ở quê nhà. Anh từng đi nhiều chùa từ Nam ra Bắc, từ Á sang Âu, quen biết nhiều sư thầy nổi tiếng; chùa to chùa lớn, anh đều biết tất. Đôi lúc nói chuyện, anh chê trách mình không cập nhật tin tức, không chịu theo dõi ông sư này ông thầy kia giảng thuyết trên mạng. Quả nhiên đúng vậy, bởi mình rất ít quan tâm đến những chuyện "giảng thuyết" của các vị, lại càng lạc hậu về những tin tức thời sự và kiến thức tôn giáo như anh. Có lần anh hỏi mình "Hiểu sao về luân hồi ?". Câu hỏi hóc búa quá, mình trả lời - "Thì chắc cũng như đi xe lửa thôi. Muốn đi đâu đó thì mới mua vé đi, hết ham muốn thì không mua vé nữa. Vậy thôi!". Lần nữa, anh lại hỏi " Hiểu sao về thiền ?". Mình lại trả lời - "Thì chắc cũng như ra sân ga ngồi thôi. Nhìn những đoàn tàu đến, rồi đi. Tiếng còi tàu, tiếng tà vẹt, tiếng rao hàng, tiếng chửi lộn ...vang lên rồi tắt. Không chạy theo, không vẫy gọi, không chờ đợi, không mơ ước, không nhớ nhung, mà cũng chẳng coi ai là "ga nhỏ dọc đường"... Nhà ga thì vẫn ở đó, sân ga thì vẫn ở đó. Vậy thôi !". 

Thế là lâu nay, anh không thèm hỏi chuyện "đạo" với mình nữa :-)

Lần này hết chuyện đạo, sang đến chuyện đời. Cớ là mấy ngày qua nước Mỹ có một sự kiện thu hút nhiều sự chú ý của truyền thông và xã hội. Đó là một vụ ám sát kinh hoàng. Tất nhiên hành động ám sát dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều là bạo lực chính trị, cần được lên án mạnh mẽ. Nạn nhân là một thanh niên trẻ tuổi, quen thân với tổng thống Mỹ và các quan chức chính quyền đương nhiệm. Anh ấy thường có những cuộc diễn thuyết về quan điểm sống & xã hội của bản thân với giới trẻ HK. Sự ra đi của anh là một mất mát lớn cho gia đình và những người theo dõi ủng hộ anh ấy. Ông bạn VK của mình cũng gọi điện và tiếc thương cho một nguời trẻ tuổi có tài. Nói thêm chút, xưa nay việc bất đồng quan điểm là chuyện rất bình thường trong cuộc sống. Nước Mỹ tôn trọng quyền tự do ngôn luận, đưa lên hàng đầu. Con người sống trong xã hội văn minh cần tôn trọng sự khác biệt của người khác. Nếu không thích có thể tranh luận ôn hoà với nhau để tìm ra giải pháp chung. Ai cũng có quyền tự do diễn đạt ý kiến của mình. Không thể nào vì quan điểm khác biệt mà đe doạ, thậm chí giết chóc nhau, hoặc dùng bạo lực để cưỡng bức bịt miệng người khác. Bên cạnh đó, bất kỳ quốc gia nào cũng có những kẻ cực đoan cuồng tín, nên xã hội và con người cần phải tỉnh táo để không bị lôi cuốn vào vòng xoáy hận thù của thiểu số cực đoan đó. Thực ra thì trước đây mình cũng chưa từng được nghe một bài nói chuyện hoặc diễn thuyết nào của nạn nhân, nên cũng không có ý kiến gì, mà chỉ ngồi nghe ông bạn của mình nói là chính. Sau đó, mình có vào mạng để tìm hiểu, mới biết ra nạn nhân là một người trẻ cũng có tài tranh luận và có sức ảnh hưởng lớn với những người ủng hộ anh ta, đặc biệt là với vị tổng thống đương nhiệm và nội các đương thời. Ngoài ra, qua mạng mình cũng khá ấn tượng là có nhiều người Mỷ gốc Việt quan tâm đến chính trị phe phái đến vậy, hơn hẳn các gốc dân châu Á khác !

Nói đúng ra, thì cũng có rất nhiều người Mỹ chưa hề biết đến tên anh này, cho đến khi vụ ám sát xảy ra. Quả nhiên là vậy, vì không phải ai ở xứ này cũng quan tâm đến đảng phái chính trị, phe nọ phe kia, hoặc ông này bà nọ. Đại đa số dân Mỹ luôn tôn trọng pháp luật, tuân thủ nghĩa vụ đối với xã hội và quốc gia, quan tâm đến công việc làm ăn. Họ coi trọng cuộc sống vui vẻ cùng gia đình, theo đuổi những thú vui sở thich cá nhân, tham gia những sinh hoạt cùng bạn bè, và cộng đồng thân quen của họ. Ngoài ra, nhiều người có những lý tưởng sống cao cả, thiện nguyện, hy sinh cống hiến cho thế giới hoà bình, cho người khác, cho xã hội, cho cộng đồng, cho tín ngưỡng, cho môi trường, hoặc cho những giá trị cuộc sống khác nhau, chứ họ không nhất thiết phải để tâm đến chuyện đảng phái chính trị, tả hữu xanh đỏ. Đến ngày bầu cử, họ làm tròn nghĩa vụ công dân, đi bầu rồi xong, vui vẻ chấp nhận kết quả, chứ cũng không dành nhiều thời gian để cãi vả tranh chấp như những người mù sờ voi, làm cho gia đình, con cái, bạn bè, xáo trộn cả lên. Những lần bầu cử ở Mỹ, bạn bè gọi điện thoại hỏi thăm mình về ông này bà kia, làm mình kinh ngạc vô cùng. Ngay cả dân Mỹ chính hiệu cũng không phải ai cũng đi bầu cử, càng không phải ai cũng tham gia đảng phái, sinh hoạt chính trị họp hành. Xưa nay vị tổng thống Mỹ nào mà đắc cử được số phiếu tầm hơn 1/5 dân số (70 triệu), hoặc là trên 60% dân số thuộc diện đi bầu, là cao ngất ngưỡng rồi. 

Tuy nhiên mình ngạc nhiên là có nhiều VK, thậm chí cả những người ở VN lại biết "rành rẽ" về nạn nhân bị ám sát, về chính trường của Mỷ, còn hơn cả những bạn bè bản xứ của mình. Đáng phục hơn nữa là có một số đồng hương VK sống tại Mỹ, mặc dù tiếng Anh tiếng u chưa rành lắm, nhưng đã phân tích tình hình chính trị đảng phái, cánh tả cánh hữu, lập ra nhiều kênh Youtube truyền thông, hoặc đọc báo mạng rồi phát tán mạnh mẽ cho đồng bào trong và ngoài nước. Sự nhiệt tình và thông thạo của họ còn hơn hẳn những nhà phân tích chuyên nghiệp. Ngẫm lại, dân VN ta nhiều người có năng khiếu đặc biệt về chính trị. Dường như ai cũng có ước mơ được công nhận và những nhu cầu đóng góp thầm kín !

Trở lại câu chuyện chính, anh bạn VK hỏi mình suy nghĩ thế nào về chuyện phân hoá chia rẽ cánh nọ cánh kia như tình hình hiện nay ở Mỹ. Mình nói - Anh hỏi nhầm người rồi, nhưng chắc là cũng giống chuyện xe lửa ở bên nhà :-). Anh hoảng hồn - Lại là chuyện xe lửa nữa hả ?

Thực ra thì hình tượng sân ga và đoàn tàu gần gũi với mình, nên dễ liên tưởng hơn. Còn chuyện chính trị chính em, cánh nọ cánh kia, thì xa vời với mình quá. Nhớ lại lúc còn ở VN, có một thời, hình ảnh quen thuộc của đất nước là những đoàn tàu chậm rãi nối liền hai miền Nam Bắc. Mỗi chuyến tàu không chỉ chuyên chở con người và hàng hóa, mà còn chở cả những câu chuyện thầm lặng, một người con xa xứ trở về quê hương, một đôi vợ chồng trẻ vào Nam lập nghiệp, những đứa học trò nhà quê đi thi, hay cụ già tóc bạc lần đầu ra Bắc thăm lại cố hương... Những gương mặt trên tàu, dẫu xa lạ, vẫn mang chung một nhịp thở của hành trình xuyên Việt, nơi ký ức và hiện tại hòa quyện vào nhau. Đoàn tàu đi qua những miền đất quen thuộc, ruộng đồng mênh mông, eo biển rì rào, núi đồi xanh thẫm, rồi lại lướt qua những đô thị rực sáng đèn điện, hay những xóm nghèo chen chúc. Ngồi trên toa tàu, người ta thấy đất nước mình trải dài, vừa gần gũi vừa rộng lớn. Có lúc, chỉ cần nhìn qua ô cửa kính, ta đã thấy như đi qua cả một đời người, từ tuổi thơ hồn nhiên ở miền quê, đến những chặng đường đời gấp gáp của đô thị, và những giây phút lặng im trước biển khơi dạt dào sóng gió.

Những đoàn tàu ấy, khởi đầu và kết thúc, cũng chỉ là những đoàn tàu, mục đích duy nhất là để chuyên chở con người và hàng hoá từ nơi nọ đến nơi kia. Nhưng rồi để có sự nhận biết, người ta bắt đầu đặt tên cho nó, tàu Thống nhất, tàu SE1, SE2, SE3, tàu nhanh, tàu suốt, tàu chợ, tàu ra Bắc, tàu vào Nam. Lần hồi, bắt đầu có sự phân biệt. Ví dụ như - lợi nhuận buôn bán khác biệt giữa tàu này với tàu kia, khách tàu Bắc-Nam khác với khách tàu Nam-Bắc, khách tàu chợ khác với khách tàu suốt .v.v... Sự phân biệt cứ thế hình thành và phát triển ra nhiều hướng khác nhau. Dạo ấy, những đoàn tàu tiện nghi còn chưa được như bây giờ. Nghe nói đến một cung đường nhất định nào đó, mọi đoàn tàu đều phải dừng lại để xả phân thải từ các bồn cầu xuống đường ray, rồi đi tiếp. (Chuyện này không biết bây giờ còn không, mình không kiểm chứng được). Có lần, bị dịch bệnh gì đó, nhiều người bắt đầu bức xúc, phân biệt kỳ thị, phản đối, cho rằng mỗi ngày có hàng ngàn tấn phân từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc. Phân của đoàn tàu này này nguy hiểm hơn phân của đoàn tàu kia, phân này xấu hơn, phân kia lây bệnh, phân nọ thối hơn ....v.v...và v.v ... 



Tất nhiên con người thì cứ phân biệt và bôi xấu lẫn nhau như một đặc tính cố hữu, nhưng đoàn tàu thì vẫn lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình. Mỗi người bước lên tàu đều mang theo một điểm xuất phát, một hoàn cảnh riêng, không ai giống ai. Có người từng trải, có kẻ non nớt; có người đi để đoàn tụ, có kẻ đi vì mưu sinh... Sự khác biệt ấy là tự nhiên, và đa số biết chọn cách dung hòa, thích ứng. Bởi lẽ, không ai có thể vì những dị biệt ấy mà chém giết nhau, hay mãi mạt sát nhau. Nhưng cuộc sống vốn chẳng lý tưởng vậy. Luôn có những người không chịu được sự khác biệt. Họ thổi phồng nó lên, khai thác sự non nớt, sự ngây thơ, để lừa lọc, để mưu lợi cho bản thân hay cho một phe nhóm nào đó. Ngay cả khi đang ngồi chung trên một chuyến tàu, họ vẫn không ngừng so đo, rỉ rả chê trách: rằng chuyến tàu vào Nam tốt hơn chuyến tàu ra Bắc, SE1 tốt hơn SE2, toa này sạch hơn toa kia… Người chửi cứ chửi, kẻ lợi dụng cứ lợi dụng, người ngây thơ cứ tiếp tục bị gạt gẫm. Và đoàn tàu, vẫn mặc nhiên lăn bánh, không phân biệt đúng sai, không phán xét ai cả.

Mình nói với anh bạn VK của mình: “Đó, những chuyến tàu ngày xưa khiến tôi liên tưởng đến đảng phái, đến lề trái lề phải trong một đất nước. Sự liên tưởng đó không hề nhằm phân biệt hay ám chỉ quốc gia nào. Bởi mỗi dân tộc đều có những giai đoạn thăng trầm, những lần vấp ngã, những bài học xương máu để trưởng thành. Câu hỏi đặt ra là - những người trong cuộc có nhận ra sự nguy hiểm tiềm tàng của vấn đề chia rẽ dân tộc hay không? Tôi tin là có. Nhưng liệu họ có vượt qua và thắng được chính tham vọng cá nhân của họ, để đặt lợi ích chung lên trên? Đó mới là câu chuyện lớn, và cũng là thách thức khó khăn nhất của bất kỳ quốc gia nào. Và cuối cùng phần quan trọng nhất, là ở những lúc đất nước bị chia rẽ hận thù như thế, người lãnh đạo có đủ tầm nhìn và khả năng lèo lái để hàn gắn và kết nối, hay ngược lại càng khoét sâu vào vết thương dân tộc?"

Anh nghe xong im lặng. Còn mình, bỗng nhiên nghĩ đến những câu thơ của Vũ Hữu Định ngày xưa ....

ngồi đường xe lửa chạy
gõ sắt buồn mênh mông
trước mặt ta biển lặng
sau lưng ta là rừng

mỗi ngày như chứng bệnh
ra ngồi nhìn đường tàu
hai con đường mút mắt
xuôi ngược buồn như nhau

ở đây không ai đi
ở đây không ai về
chỉ còn ta ở lại
lang thang ôm hồn quê

ở đây không còn nhà
chỉ còn ta với cỏ
còn những người dưới mộ
với lũ chim giang hồ

những ngày giặc không qua
ta đi tìm năm cũ
ngồi trên nền trường xưa
gỡ những màn rêu phủ

những ngày giặc không về
ta ra ngồi đường tàu
gõ sắt và đếm nhịp
so nhịp tim ta đau

những đêm vắng thật vắng
ta đi trong làng quê
tìm một con đom đóm
đốt sáng tình ủ ê ....
(VHD)

Thân chúc anh và bạn bè thân hữu một cuối tuần an vui .

PN


Sunday, August 17, 2025

Mạn phép trả lời ....



Vài ngày trước mình có viết bài phiếm "Loạn thế anh hùng" nhân dịp ông Trump và Putin hẹn gặp nhau ở Alaska. Viết cho vui thôi, nhưng nhận được nhiều phản hồi rất có giá trị và hữu ích từ các bằng hữu. Xin thành thật cảm ơn các bạn đã theo dõi và góp ý. Hôm này xin mạn phép trả lời một vài ý kiến của các bạn.

Trước hết có bạn hỏi: “Gặp mặt vậy thực sự có kết quả gì không? Giống như chủ đầu tư gặp cưỡng chế, mà không có chủ đất tham gia”. Thực ra cách ví von này cũng hay, nhưng không phải ai cũng hiểu được (mình biết trong này có nhiều bạn phải dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh để đọc). Theo thiển ý của mình, ở tầm cỡ quốc gia, với lực lượng cố vấn hùng hậu, tất nhiên việc làm nào cũng có chủ đích cả. Còn việc chủ đích đó có giống như bạn hoặc thiên hạ nghĩ hay không thì lại là chuyện khác. Mỗi người có cách hiểu và mục đích riêng của họ. Đại đa số nghĩ rằng cuộc họp mặt đó là vì hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Điều đó cũng hợp lý thôi, nhưng thực tế thì biết đâu mà lần, nếu có nắm rõ thì chỉ có người trong cuộc mới biết. Cho nên với câu hỏi “kết quả thực sự là gì?”, mình xin thưa là không biết, và cũng không thể gán ghép suy nghĩ của mình vào suy nghĩ của các vị kia được. Một số nhà phân tích thì dựa vào tính cách và tư duy, mức độ khả tín về những hứa hẹn xưa nay, hoặc "ngôn ngữ cơ thể" của 2 vị để đoán biết kết quả cuộc hội đàm. Mình thì không tin lắm về những đồn đoán như vậy, mà luôn cho rằng - kết quả bao giờ cũng là câu trả lời đúng nhất. Đợi thôi. Một bậc "thầy" đàm phán, một "thiên sứ" xuống trần, gặp một "cao thủ" đu bám, một "lãnh đạo tài ba" mà mấy chục năm nay không ai có thể thay thế, thì chắc là có nhiều chuyện hay để nói :-). Hy vọng hai bên đều có những mục đích cụ thể để theo đuổi. Nếu không thì vài bữa nữa lại có dịp gặp nhau ở Mạc Tư Khoa để nghe câu hò Nghệ Tĩnh :-).

Ngoài lề chút, ngày xưa trong binh pháp Tôn Tử có kế thứ 2 là "Vây Nguỵ cứu Triệu". Sau này nhiều quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo thế giới, mặc dù không hiểu tiếng TQ, chưa hề ăn dim sum, hoặc chưa hề đọc binh pháp, nhưng vẫn thường xuyên xử dụng kế sách đó khi cần giải nguy hoặc chuyển hướng những tình trạng khẩn thiết như kinh tế nhức đầu sổ mũi, mâu thuẫn nội bộ, dư luận bất lợi ..etc.. Bởi vậy, chính trị chính em thì thiên biến vạn hoá, hư hư thực thực. Đoán mò hoặc gán ghép chỉ là vẽ rắn thêm chân, đôi khi còn tổn hại đến sự tỉnh táo của bản thân. Xưa nay nhiều sự kiện nhìn từ bề ngoài kết quả không giống như đám đông "mong đợi", nhưng lại là kết quả "mĩ mãn" dưới mục đích khác của người trong cuộc. Hoặc có khi đám đông tự suy diễn và đánh giá quá cao ý nghĩa thực sự của vấn đề, làm cho câu chuyện mặn mà thêm. Đó cũng là chuyện thường tình :-).

Kế đến, là ý kiến rất thú vị của một anh bạn khác, cho rằng "... Hai người tuy tính tình khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ là cả hai thiếu hẳn yếu tố “vị tha,” chỉ có yếu tố “vị kỷ” thôi. Một người muốn làm người được ngưỡng mộ nhất thế giới. Người kia muốn làm người quyền lực nhất thế giới. Cả hai đều vui mừng khi người khác sợ họ. Tôi chưa từng nghe nói đến một vị "anh hùng" nào có những đặc điểm đó..."
Rất cảm ơn anh về sự chia sẻ này. Đồng ý với nhận xét của anh, và muốn trao đổi thêm với anh về hai yếu tố “vị kỷ” và “vị tha”, theo cách nhìn riêng trong cuộc sống, chứ không nhất thiết liên quan đến vị lãnh đạo nào. Chắc hẳn mọi người đều biết vị tha và vị kỷ vốn là tính cách cố hữu của con người, kẻ ít người nhiều đều có. “Vị kỷ” thì dễ thấy, bởi thường gắn liền với tiền tài, danh sắc, quyền lợi cá nhân, nên ai cũng có thể dễ dàng nhận ra từ chính bản thân. Còn “vị tha” thì khó nhận ra hơn, vì ai cũng nghĩ mình cao thượng, dễ tha thứ, và giàu lòng nhân ái. Nhưng thực ra, nó gắn chặt với cái "ngã" bên trong, và con người rất dễ tự đánh lừa bản thân rằng mình “cao thượng”, "vị tha", cho đến khi gặp chuyện thử thách.

Tất nhiên, không ai vì làm vua, làm quan, mà tự nhiên trở nên “vị tha” hay “vị kỷ” hơn, trừ khi chính họ có sự tỉnh thức để nhận biết giới hạn bản thân, và thực hành sống buông xả. Tuy nhiên mình nghĩ, một người bản chất ham muốn quyền lực thì khó có thể tỉnh ngộ và buông bỏ như một người bình thường hoặc có chút tu tập. Có nhiều người khi hoàn cảnh thay đổi thì tính cách cũng đổi thay, có thể tốt hơn hoặc xấu đi. Nhưng một khi đã nắm quyền lực mà không có lòng vị tha, ích kỷ nhỏ nhen, thì quả thật là đáng sợ. Lịch sử xưa nay tuy không nhiều, nhưng vẫn có những nhân vật như thế, và họ để lại đầy rẫy hận thù, trả đũa, gieo rắc bất an, hơn thua nhau từng vấn đề nhỏ nhặt, trở thành nỗi sợ hãi, lo lắng cho nhiều người. 

Theo mình, một đất nước sẽ được bình yên khi có những người lãnh đạo giàu lòng vị tha, ít vị kỷ. Như VN thời Lý Trần, phồn thịnh an vui, vì có nhiều vị vua giàu lòng nhân ái. Trên trường quốc tế cũng vậy, khi những cường quốc có những nhà lãnh đạo tự trọng, khiêm cung, giàu lòng vị tha, thì thế giới sẽ có những năm tháng bình ổn, và phát triển thuận lợi. Nhưng cuộc sống này vốn vô thường, không thứ gì có thể tồn tại mãi theo ý muốn con người, và lịch sử luôn có những bài học đắt giá cần phải nếm trải!

Nhớ có lần ngồi chuyện phiếm, người bạn hỏi “Ngày nay, trên thế giới có còn lãnh đạo nào thật sự vị tha, nghĩ cho thiên hạ mà không vướng vào ích kỷ cá nhân không?” Mình chợt nhớ đến các vị như Gandhi, Mandela, Lincoln, Havel, Đức Đạt Lai Lạt Ma ... những con người từng không chọn con đường trả thù hay chém giết, mà chọn khoan dung, lấy tình cảm và trí tuệ để hóa giải hận thù. Họ được kính trọng vì đặt lợi ích dân tộc và nhân loại lên trên lợi ích cá nhân. Mahatma Gandhi (Ấn Độ), lãnh đạo phong trào độc lập, chọn con đường bất bạo động, vị tha và khoan dung, được cả thế giới kính phục. Nelson Mandela (Nam Phi), sau 27 năm tù tội, vẫn chủ trương hòa giải thay vì trả thù, tạo ra hình ảnh lãnh đạo không vị kỷ, hết lòng vì dân tộc. Abraham Lincoln (Mỹ), lãnh đạo nước Mỹ vượt qua nội chiến, chấp nhận hy sinh cá nhân để bảo vệ sự thống nhất và tự do. Václav Havel (Tiệp Khắc), nhà văn, nhà hoạt động, và trở thành tổng thống. Ông được tôn trọng vì tinh thần khiêm nhường, dùng quyền lực để củng cố tự do, dân chủ, thay vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Havel từng nói: “Quyền lực có thể làm tha hóa, nhưng quyền lực chỉ thực sự có ý nghĩa khi phục vụ cho sự thật và con người. Đức Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng), mặc dù sống lưu vong, bị TQ truy đuổi, Ngài trở thành biểu tượng toàn cầu của từ bi, khoan dung và bất bạo động. Ngài không tìm cách củng cố quyền lực cho riêng mình, mà dấn thân vì quyền lợi và văn hóa Tây Tạng, đồng thời kêu gọi hòa bình cho nhân loại..v.v.. Và chắc chắn còn nhiều vị lãnh đạo giàu lòng vị tha, thay vì vị kỷ và đam mê quyền lực, mà mình không nhớ hết.

Trong lịch sử VN, hẳn nhiều người không thể quên Hội thề Đông Quan. Sau bao năm máu lửa, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn Bình Ngô đại cáo, tuyên bố giặc Minh đã thua, nhưng đồng thời lại cho phép họ rút quân về nước, giữ vẹn tính mạng. Đó không phải sự yếu mềm, mà là sự rộng lượng của kẻ mạnh. Tha cho hàng vạn binh lính đã từng tàn phá xứ sở này, chính là một chiến thắng lớn hơn mọi trận đánh, chiến thắng của lòng người. 

Trước đó, thời Trần chống Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo từng dặn dò vua và triều đình: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức thì giặc tự phải tan.” Ông hiểu rằng muốn thắng giặc ngoài, trước tiên phải hòa khí trong nhà. Đích thân ông còn tắm cho Trần Quang Khải, hóa giải hiềm khích để gắn kết nhân tâm. Ấy cũng là một dạng vị tha, dẹp cái tôi nhỏ bé để giữ cái đại nghĩa muôn dân. Và cũng trong nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi đánh thắng giặc, không sa vào quyền lực hay hưởng thụ, mà lui về Yên Tử, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Một vị vua vừa cầm quân nơi trận mạc, vừa gác bỏ ngai vàng để đi tu, để gieo hạt mầm an lạc cho dân. Đó chẳng phải là biểu hiện đẹp nhất của “vị tha” hay sao?

Nhìn lại, ta thấy những bậc anh hùng xưa đều hiểu rằng sức mạnh không chỉ nằm ở gươm đao, mà ở chỗ biết buông bỏ đúng lúc, biết lấy lòng nhân để thắng lòng người. Họ không vị kỷ, không chỉ nghĩ cho bản thân, mà chọn con đường để lại sự bình an cho cả một dân tộc. Họ không bao giờ cần ai phải sợ hãi, cũng không cần phải hiếp đáp ai, và càng không cần ai phải ngưỡng mộ mình. Ngày nay, chúng ta chứng kiến quá nhiều nhà lãnh đạo thích khoe cơ bắp, thích tiếng vang và sự ngưỡng mộ bề ngoài. Nhưng rồi cũng có những con người âm thầm làm điều nhỏ bé mà vĩ đại như một quyết định nhân đạo, một cái bắt tay hàn gắn, một sự nhún nhường để tránh đổ máu. Đó mới chính là những chiến thắng thật sự. Có lẽ, trong thực tại hôm nay, chúng ta cũng cần những “anh hùng” theo nghĩa ấy - không phải là người hô hào những lời lớn lao, mà là người đủ vị tha để đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Bởi đôi khi, thắng lợi lớn nhất của một quốc gia hay một cộng đồng không phải là chiến thắng đối thủ, mà là chiến thắng chính lòng tham và cái ngã của mình.

Cuối cùng, có một bạn hỏi: “Liệu những xung đột như thế này có thể dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba hay không?” Xin thưa, ai mà biết được! Cuộc sống vốn vô thường, cái gì đến thì sẽ đến, khi hội đủ những điều kiện nhất định nào đó. Đó cũng chính là khái niệm “duyên khởi” trong Phật giáo. Sợ hãi hay lo lắng vốn chẳng giải quyết được điều gì. Mặt khác cũng nên biết, xưa nay những ông vua chúa thích dựa hơi hù doạ lại thường là người yếu đuối nhất :-).

Một nhà lãnh đạo chân chính luôn đặt việc an dân của đất nước mình và sự bình ổn của thế giới lên hàng đầu, bởi họ đủ thông minh để hiểu rằng trong bối cảnh chính trị ngày nay, an ninh của một quốc gia không thể tách rời khỏi an ninh thế giới, cho dù quốc gia đó có mạnh mẽ đến đâu. Nhưng cũng có những người lợi dụng sự hoang mang, sợ hãi của dân chúng, để tạo vị thế và quyền lực cho bản thân hoặc lợi ích nhóm. Thậm chí, lịch sử không ít kẻ vì tham vọng cá nhân đã không ngần ngại tạo ra chiến tranh chết chóc, bất ổn xã hội, đổ nát hoang tàn, hoặc chia rẽ để chiếm đoat. Họ không những làm cho dân chúng trong nước hoang mang, mà còn làm cho trật tự thế giới xáo trộn. Và trò chơi quyền lực của các nước lớn xưa nay trên bàn cờ chính trị thế giới vẫn là những nỗi lo toan bất lực, thậm chí rất không công bằng đối với một số nước nhỏ.

Điều đáng nói là trong cuộc sống không phải ai cũng tỉnh táo để nhận ra chân tướng vấn đề. Đôi khi phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí trả giá khá đắt, con người mới hiểu ra bản chất sự việc. Riêng mình vẫn luôn quan niệm - Đông hay Tây thì cũng thế, chiến tranh chỉ là sự tiếp nối của chính trị, mà cốt lõi của chính trị lại chính là lòng người. Kẻ nào nắm được lòng người, kẻ đó sẽ chiến thắng !

Còn thời buổi này mà muốn nghe thuyết âm mưu thì vô vàn. Nào là thuyết "quậy để trị", "chia để trị", "đục nước béo cò", "trong nồi ít gạo thì tạo chiến tranh", "phân chia lợi ích", "thừa nước đục thả câu, bán vũ khí làm giàu" ...v.v... Mấy chuyện này xưa nay nghe hoài, mình thường đùa rằng - thuyết âm mưu không biết đúng sai nhưng người có lợi nhất là mấy người bán rượu, bán bia, bán quán nhậu, và làm youtube ... :-) .

Thôi, xin tạm dừng ở đây. Chúc các anh chị em bằng hữu vui vẻ. Mời nghe lại một bài hát nổi tiếng của Michael Jackson :-)

PN



Thursday, August 14, 2025

Phiếm: Loạn thế anh hùng ...:-)

 


Chiều nay trời mưa lớn, khỏi tưới rau, mà cũng chẳng đi bộ được, ngồi nhà phiếm chuyện cổ kim cho vui. Hôm qua giờ, nước Mỹ có 2 chuyện quan trọng thu hút sự chú ý của các ông bạn già mình, đó là vé số độc đắc lên gần nửa tỉ đô, và ông Trump ngày mai đi gặp ông Putin. Thực ra, xứ này có đề tài để bàn luận là vui rồi. Nhưng nhiều người bàn bạc rồi nhập vai "sâu" quá, dính mắc vào đó, thêm mắm thêm muối, thành ra chuyện phe này phe kia, bên tốt bên xấu, mà dẫn đến rách việc. Còn chuyện anh hùng và thời thế thì thời nào chả có ?

Nhớ hồi nhỏ khoái coi truyện Tàu và kiếm hiệp. Thi cử mà không lo học, ngày tắm sông, bắt cá, đá gà, tối thuê truyện, hết bộ này đến bộ kia. May nhờ vậy mà bây giờ còn chuyện để nói :-). Phải nói một trong các giai đoạn lịch sử TQ mà mình mê nhất là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc, mê những nhân vật như Quỷ Cốc Tử, Khương Tử Nha (Lã Vọng), Quản Trọng, Nhạc Nghị, Thương quân Vệ Ưởng, Tôn Tử ..... Ngày xưa, những người được kính trọng thường vừa có tài vừa có đức, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để vì dân, vì xã tắc, thậm chí bảo vệ dân đen vô tội của cả nước đối địch. Bởi thế, nhiều người thời ấy được hậu thế tôn xưng như bậc thánh nhân. Bên cạnh tài năng và đức độ, những câu chuyện về tình bạn tri kỷ như Quản Trọng, Bào Thúc Nha vẫn được lưu truyền, khiến người đời khâm phục. Một Khương Thượng thà âm thầm 80 năm chờ đợi minh quân, còn hơn ra cộng tác với phàm phu vô đạo; rồi chỉ cần 20 năm đã gây dựng nghiệp lớn cho nhà Chu, diệt nhà Thương, mở ra thời kỳ thịnh trị, đặt nền móng cho nước Tề. Một Quản Trọng không màng lợi danh, vì lợi ích chung tiến cử người hiền, lấy kế sách hòa bình để yên dân, lo từng hạt thóc cho bá tánh. Một Nhạc Nghị tài ba, trung quân chính trực, tấm lòng trung hậu của ông được lưu danh hậu thế. Một Vệ Ưởng Thương Quân dám mạnh dạn cải cách, thiết lập nền pháp trị đầu tiên trong lịch sử, dù biết trước sẽ bị phân thây sau này. Và một Tôn Tử, thiên tài quân sự với tư tưởng chiến lược hơn chiến thuật, nhấn mạnh “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, thậm chí thắng ngay trước khi giao chiến..v.v..

Không rõ các anh hùng nước ta sau này như Nguyễn Trãi và Trần Hưng Đạo có trực tiếp vận dụng binh pháp Tôn Tử hay không, nhưng tư tưởng và cách dụng binh của họ rõ ràng mang nhiều điểm tương đồng. Dù bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng cả Tôn Tử, Nguyễn Trãi, và Trần Hưng Đạo đều chứng minh rằng chiến thắng không chỉ đến từ sức mạnh quân sự, mà còn từ sự am hiểu con người và hoàn cảnh. “Biết mình biết người” không chỉ là nghệ thuật đánh trận, mà còn là bài học trong quản trị, thương thuyết và đời sống.

Thời Trần chống Nguyên-Mông, Trần Hưng Đạo áp dụng triệt để tư tưởng này. Ông đích thân tắm cho Trần Quang Khải để hóa giải hiềm khích, đoàn kết nội bộ lo việc nước. Trong chiến lược, ông nắm rõ ưu thế kỵ binh của quân Mông Cổ, điểm yếu khi bị cắt nguồn tiếp tế và bất lợi trong chiến tranh thủy bộ. Nhờ vậy, kế “vườn không nhà trống” và trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng đã nhiều lần đánh tan quân Nguyên.

Nguyễn Trãi, trong kháng chiến chống Minh, cũng hiểu rõ kỷ luật nghiêm ngặt và sức mạnh quân số của địch, đồng thời thấy được sự xa nhà, tinh thần sa sút và mâu thuẫn nội bộ của họ. Bằng Bình Ngô sách và chiến lược “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, ông cùng Lê Lợi vừa đánh vừa vận động binh sĩ và dân chúng, khiến quân Minh dần suy kiệt và phải rút quân. Đây là những minh chứng điển hình cho việc “thắng trước khi đánh”, tinh thần cốt lõi của “biết người biết ta”.

Tiếc rằng, Việt Nam chưa có nhiều tác phẩm văn học lịch sử quy mô và sức lan toả mạnh mẽ lâu bền như Tam Quốc Chí của Trần Thọ/ La Quán Trung, hoặc Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long/Dư Thiệu Ngư, để những câu chuyện ấy sống mãi cùng hậu thế.

Nói chuyện ngày xưa cho vui vậy thôi, chứ nếu các vị anh hùng đó sinh vào thời nay, không chừng lại mang hoạ vào thân. Anh hùng còn phải gặp đúng thời thế. Nhớ hồi nhỏ, nghe người lớn giảng giải mấy câu "Anh hùng tạo thời thế, thời thế tạo anh hùng". Mình thường không quan tâm lắm, cứ coi như chuyện con gà và cái trứng. Sau này lớn lên mới thấy nhiều ông "anh hùng" mà chẳng cần phải tạo ra gì, có khi chỉ cần phán lung tung, và có người tin là đủ :-). Những kiểu "anh hùng" như vậy vốn nhan nhản trong đời sống hàng ngày, đến rồi đi. Ngược lại, những anh hùng thực sự luôn thầm lặng hy sinh và cống hiến, mà không cần người khác tung hô xưng tụng. Từ những người lính cứu hoả, thầy cô giáo, binh sĩ, y tá bác sĩ, nhà nghiên cứu khoa học, cho đến những người công nhân, nhân viên vệ sinh ... ở đâu cũng có thể bắt gặp những khoảnh khắc anh hùng, cống hiến hy sinh, bảo vệ người khác bảo vệ kẻ yếu, hoặc mạnh dạn đấu tranh vì cái đúng, vì chính nghĩa. Tuy nhiên thời này ở một số nơi, những anh hùng thực sự mà sơ suất có khi còn bị cho đi “chăn kiến”. Ngay cả ở Mỹ bây giờ nhiều người còn e ngại sợ bị chụp mũ, kiện cáo, hoặc… trục xuất. Vì thế, ngày càng nhiều người chọn cách sống cầu an, chấp nhận và lặng lẽ, để tránh va chạm. Không biết đó là tín hiệu tốt hay xấu !?



Dĩ nhiên định nghĩa về “anh hùng” ngày nay cũng đã khác xưa nhiều. Hoàn cảnh đã khác, con người hiện đại dễ chạy theo hình thức và tin đồn, thật giả khó phân, nhất là trên mạng xã hội. Công nghệ phát triển tạo ra hai xu hướng rõ rệt, hoặc bị thông tin dẫn dắt, hoặc dẫn dắt thông tin, đôi khi vô tình, đôi khi có chủ ý. Nhũng người hiểu biết lý lẽ hoặc đạo pháp thì cố gắng thực hành sống tỉnh thức, không để ngũ uẩn thao túng tạo ra cái “ngã” và cái “biết” giả tưởng. Còn nếu chỉ nghe, nhìn từ bên ngoài, bị lôi cuốn vào dư luận thị phi, thì khó mà nhận ra ai thực sự yêu nước thương dân, ai chỉ mượn danh để mưu cầu lợi riêng !

Tuy nhiên cho dù quan niệm về anh hùng của ngày xưa và ngày nay có khác, cũng như triết lý sống giữa Đông và Tây có những điểm riêng biệt, thì tính chất căn bản vẫn tương đồng. Những người anh hùng thực sự luôn phân biệt được giá trị của cái chung và cái riêng, hy sinh lợi ích bản thân, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì chính nghĩa, bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ công lý, tôn trọng sự thật; đem lại sự an lành cho người khác, không cậy lớn hiếp bé, không ỉ mạnh hiếp yếu, hoặc hơn thua chuyệu tiểu tiết, gây mâu thuẩn bất an cho xã hội và con người. 

Nhưng thực tế thì không phải giá trị nào cũng được nhận biết và trọng đãi, mà còn phải tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác như hoàn cảnh xã hội và thời điểm thích hợp. Có nhiều tài năng kiệt xuất hoặc hoài bão lớn lao cũng chưa chắc có cơ hội để thực hiện. Nhớ mấy năm trước có anh nhạc sĩ vĩ cầm Joshua Bell, một trong những nghệ sĩ violin hàng đầu thế giới, từng biểu diễn ở các nhà hát danh giá với vé hàng ngàn USD. Một lần, theo thí nghiệm của tờ Washington Post, anh cải trang thành nghệ sĩ đường phố, đứng chơi violin tại ga tàu điện ngầm ở Washington D.C. Suốt 45 phút, hàng ngàn người đi qua, nhưng chỉ vài người dừng lại nghe, và tổng số tiền “khán giả” bỏ vào hộp chỉ khoảng 32 USD. Thí nghiệm này cho thấy ngay cả tài năng bậc thầy, nếu đặt sai bối cảnh và thời điểm, cũng không ai biết được giá trị của họ. Đúng vậy, và xưa nay đám đông chưa bao giờ đại diện cho trí tuệ, mà chỉ tượng trưng cho sức mạnh và xu thế tạm thời.

Tiếu lâm chút, ngày xưa Lã Vọng "câu cá" bằng lưỡi câu thẳng, bao năm ngồi câu đợi thời cơ thích hợp để ra thi thố tài năng, nên đâu bắt được con cá lăng cá lóc nào. Nhưng bây giờ VN ta có thương hiệu Chả Cá Lã Vọng, nổi tiếng và thành công. Hôm rồi mới đi Hà Nội, ghé ăn trưa, thấy bên đường quá nhiều quán gà với thương hiệu nổi tiếng "Gà Mạnh Hoạch". Hỏi thăm ông anh về lịch sử thương hiệu này, thì ra theo tích cũ thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng 7 lần bắt Mạnh Hoạch rồi tha, mãi cho đến khi thu phục được tay phiên tướng này. Ngẫm thấy hay, ông chủ quán gà bắt đầu dùng cái tên đặt cho quán của mình là "Gà tươi Mạnh Hoạch", và đồn rằng để có được gà ngon như vậy, gà phải được thả vườn rộng, ngày đuổi thả cho gà chạy 7 lần thịt mới săn chắc. Vậy rồi cũng có người tin, phát tán, và nổi tiếng !


Trở lại chuyện thời sự sốt dẻo bên Mỹ. Hồi còn vận động tranh cử, ông Trump từng hùng hồn tuyên bố nếu đắc cử sẽ “dẹp” chiến tranh Nga–Ukraine trong vòng 24 giờ. (Hồi xưa ở VN, có ông Đạo Dừa cũng phát biểu kiểu na ná như thế). Nhưng đời thường tréo ngoe, đã hơn 6 tháng trôi qua từ ngày nhậm chức, TT Trump vẫn theo đuổi giấc mơ hoà bình “24 giờ” ấy. Có khi lần này tt Trump còn được giải Nobel Hoà bình chứ chẳng phải dạng vừa :-).

Putin thì chắc cũng có giấc mơ riêng. Nhưng tới giờ chưa ai biết chắc là giấc mơ gì. Mấy năm trước, ông nói sẽ “giải phóng” Ukraine trong vài ngày. Giờ hơn ba năm, bom đạn vẫn dồn dập, bao sinh mạng mất đi, bao thành phố hoang tàn, nước mắt và hận thù chồng chất. Kết quả cuối cùng ra sao chưa rõ, nhưng chắc chắn một điều lịch sử khó gọi Putin là anh hùng.

Ngày mai, hai “anh hùng” thời đại sẽ gặp nhau ở Alaska, tt Trump gặp mặt "tội phạm chiến tranh" Putin, không có mặt tổng thống Ukraine, quốc gia nạn nhân. Nhiều người lo cho số phận Ukraine, nhưng cũng có người hy vọng vào “kỳ tích” kiểu anh hùng trọng anh hùng như chuyện cổ tích ngày xưa. Hôm qua, TT Trump tự tin tuyên bố “Chỉ cần 2 phút là biết Putin muốn gì”. Âu cũng là một dạng "biết người biết ta" của thời nay. Với quá khứ từng làm chủ sòng bài và tác giả "Nghệ thuật đàm phán", nhiều người tin rằng ông đủ kinh nghiệm nhìn ra “con bài tẩy” của Putin ngay lập tức .... :-).

Ngoài lề chút, mình có anh bạn lớn tuổi ở cùng thành phố bên Mỹ, mê thời sự đến mức anh kể từ hồi ở Việt Nam tối nào cũng ôm radio. Qua Mỹ, vẫn giữ thói quen “coi tin tức ăn mới ngon, ngủ mới yên”. Nhưng với anh, tin tức phải có hai phe rõ ràng: thắng–thua, tốt–xấu, chính–tà.... Anh thường đọc và chia sẻ tin tức từ những nguồn hợp với “đức tin” của anh, mà đôi lúc quên rằng ngay cả người gửi tin cũng có thể là nạn nhân của “tin vịt”. Cứ thế lâu ngày, tư duy nhị nguyên trở thành phản xạ, cái gì thuận anh thì đúng, nghịch anh thì sai, ít khi chịu khó tìm tòi thấu đáo sự thật vấn đề, hoặc phân tích đa chiều. Lần hồi, anh tự gán ghép bản thân đứng về một phía để "phòng thủ" hoặc "tấn công" cho thêm sắc màu, chứ thực ra anh cũng chẳng tham gia đảng điếc nào, mà cũng chẳng dính dáng đến chính trị chính em gì. Lâu lâu, không có người để tranh luận, anh tự tay phải tấn công tay trái như món "song thủ hổ bác" của Lão Ngoan đồng Châu bá Thông :-).

Hôm qua, anh gọi để chạy qua lấy bí đao về nấu canh cho vợ, rồi tiện thể bàn về cuộc gặp gỡ Trump–Putin, bức xúc so sánh lần gặp mặt này với vụ Nixon–Kissinger đi đêm với Trung Quốc năm 1972. Mình đùa "nhưng Kissinger và Trump là 2 đảng khác nhau mà, anh lo gì"? Anh im re. Hôm nay không thấy qua lấy bí đao luôn, không biết có giận hờn gì không :-).

Thôi, phiếm chút cho vui. Giờ tạnh mưa, đi bộ thôi. Chúc mọi người vui vẻ. Mai nhớ coi “Hoa sơn luận kiếm” nhé !

PN





Saturday, August 09, 2025

Tản mạn: Thời gian & trường cũ

 


Tháng trước, mình mới về quê thăm Má và bạn bè anh em vài tuần. Thời gian ngắn ngủi, đi lại nhiều nơi, quên cả ngày tháng, thoáng chốc đã đến ngày lên máy bay trở lại Mỹ. Ông anh đồng hương ra SG ăn tối tiễn đưa, dúi cho mình quyển sách để lên máy bay đọc, và tặng thêm chiếc áo in hình buổi lễ khai giảng 70 năm trước của ngôi trường trung học mà mình từng theo học. (Tất nhiên, ngày khai giảng ấy mình còn chưa ra đời. Mãi đến bao nhiêu năm sau đó, mình mới tập tễnh bước vào lớp Đệ thất cuối cùng). Bởi vậy "kiến thức" về ngôi trường ngày xưa phần lớn đến từ những câu chuyện được nghe đi kể lại của các thế hệ đi trước. Nôm na là những giai thoại về một ngôi trường trung học tỉnh lỵ, có hàng cây long não đầy ắp kỷ niệm và “truyền thống học giỏi”.

Mấy hôm nay, liên lục nhận được tin nhắn và hình ảnh từ các ông anh và bạn bè ở quê nhà, ngày hội lớn 70 năm thành lập trường. Tâm trạng rộn ràng, lấy cái áo ra mặc, nhưng cỡ lớn quá, chắc ông anh đưa nhầm size. Không sao, ngồi nhìn lại hình ảnh cái cổng trường in trên áo mà lan man nghĩ về thời gian và những ngày tháng cũ .... 

Mới đó mà mình xa quê hương đã hơn 45 năm rồi. Thỉnh thoảng cũng có về quê ghé thăm trường cũ. Hàng long não trong sân trường năm nào, giờ mỗi lúc già đi, nhưng âu đó cũng là quy luật thường tình. Thực ra thì bao nhiêu năm qua, bên cạnh những vị trí thường trực trên các phương tiện truyền thông của tỉnh nhà như núi Ấn, sông Trà, con cá bống, tô don (không vịt lộn) .v.v.. hàng long não cũng luôn đồng hành có mặt trên thi đàn của các thi sĩ nhạc sĩ "cây nhà lá vườn". Mới đây, mình thử nhờ AI viết một bài hát về ngôi trường TQT, và thật thú vị nó cũng “rinh” nguyên hàng cây long não ấy vào trong ca từ :-).

Còn nói đến “truyền thống học giỏi”, mình cho rằng đó chỉ là những cảm nhận mang tính chủ quan. Giỏi với người này chưa chắc đã giỏi với người khác. Đi dọc miền Trung, tỉnh nào cũng có những ngôi trường nổi tiếng “truyền thống học giỏi”, na ná giống nhau, như Quốc Học Huế, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung Học, Quốc Học Quy Nhơn, Quang Trung, Cường Để, Yersin, Võ Tánh…v.v. Quan điểm giáo dục cũng vậy, có những điểm chung và có những nét riêng, tùy theo từng giai đoạn lịch sử và bối cảnh xã hội. Từ những nguyên tắc giáo dục “nhân bản, dân tộc, khai phóng” ngày xưa cho đến nền “giáo dục XHCN” ngày nay là cả một chặng đường dài, gắn liền với những đổi thay của đất nước và con người. Và tất nhiên là ở đất nước nào cũng vậy, tương lai của quốc gia dân tộc luôn được dựa trên nền tảng và giá trị của giáo dục học đường.

Trong sứ mệnh giáo dục ấy, những ngôi trường nhỏ bé vẫn âm thầm đóng góp giá trị bền vững nhất cho xã hội. Giá trị thực sự của một ngôi trường không nằm ở những thành tích được ghi trên giấy, mà ở khả năng nuôi dưỡng nhân tài qua từng thế hệ, góp phần thiết thực vào sự phát triển phồn thịnh của quê hương và hữu ích cho xã hội. Lịch sử thế giới xưa nay luôn khẳng định rằng "Nền móng vững chắc dựng nên ngôi nhà bền vững; hào khí dân tộc bồi đắp nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường !"


Tuy nhiên, thời gian trôi qua cùng với những biến động của đất nước, các ngôi trường tỉnh lỵ cũng phải trải qua bao biến đổi thăng trầm. Có những bài hành khúc hào hùng một thời, hay những ca khúc đậm tình dân tộc, theo năm tháng dần bị quên lãng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh mới. Nhiều giá trị “truyền thống”, “định nghĩa”, hay “nguyên tắc” có thể đã bị thời gian hoặc những yếu tố khách quan vô tình làm phai mờ, thậm chí ảnh hưởng đến mục đích chung ban đầu. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, ai cũng mong muốn những vướng mắc và ràng buộc không cần thiết sẽ được nhìn nhận lại và gỡ bỏ, để mang đến những luồng sinh khí mới cho thế hệ học sinh – sinh viên Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn vươn mình, phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới.

Thực ra, ai cũng mong muốn ngôi trường xưa và quê hương của họ ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn. Thế nhưng, mỗi lần về quê họp trường, họp lớp, thì “ngôi trường” thật sự còn lại trong lòng mỗi người vẫn chỉ là một hình ảnh cũ kỹ thuở nào, nằm sâu trong ký ức, và gắn liền với những cảm nhận riêng biệt. Có phải đó mới chính là giá trị bền lâu nhất chăng ? Có lẽ vậy. Nhưng cũng chính những “giá trị bền lâu" ấy, những ký ức khó phai ấy, lại trở thành những dính mắc gắn bó trong cuộc sống của họ, nhiều hay ít. Mở ngoặc chút, theo quan điểm PG, nguồn gốc của mọi khổ đau (bất toại nguyện) đều bắt nguồn từ ham muốn (desire) và dính mắc (attachment). Vậy nên lỡ có dính mắc, thì dính .... vừa vừa thôi, cho đỡ nặng lòng 🙂

Cũng nhân nhắc đến chuyện thời gian, mình nhớ đến Einstein và thuyết tương đối. Ông ta cho rằng thời gian không trôi đều đặn như chiếc đồng hồ treo tường, mà co giãn tùy vào vận tốc và trường hấp dẫn. Nôm na là nếu bạn di chuyển rất nhanh, hoặc ở gần một vật thể có khối lượng lớn (như một hành tinh nặng), thời gian với bạn sẽ trôi chậm hơn so với người ở trạng thái tĩnh hoặc ở xa nguồn hấp dẫn. Đây gọi là "time dilation" (giãn nở thời gian). Hai người ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ có dòng thời gian khác nhau, một phi hành gia ngoài quỹ đạo sẽ già chậm hơn một người đứng trên mặt đất.

Còn dưới lăng kính của PG, thời gian cũng theo quy luật của vô thường. Mọi sự vật đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi ở một trạng thái. Không chỉ vật chất, mà cả cảm xúc, ký ức, và chính nhận thức của ta về thời gian cũng thay đổi.

Điểm gặp nhau giữa hai quan niệm tưởng như khác biệt này là: thời gian không cố định, và cảm nhận về nó phụ thuộc vào nơi ta “đứng”, cho dù đó là hệ quy chiếu vật lý hay tâm thức con người. Với Einstein, thời gian thay đổi theo vận tốc và trọng lực. Với đạo Phật, thời gian thay đổi theo sự nhận biết và mức độ bám chấp của con người.

Bởi thế, khi trở về mái trường cũ, có thể nhiều người cũng cảm nhận được sự giao thoa này. Đại khái là thời gian vật lý dù đã trôi qua mấy chục năm rồi, nhưng thời gian của ký ức thì vẫn đứng yên, như chỉ mới hôm qua. Đạo lý "vô thường" nhắc nhở ta rằng mọi thứ sẽ đổi thay, nhưng thuyết tương đối lại cho ta lý do để tin rằng, trong một hệ quy chiếu đặc biệt của tâm trí, những khoảnh khắc đẹp vẫn có thể ở lại mãi mãi :-). Einstein cũng từng dùng một ví dụ dí dỏm để nói về tính tương đối của thời gian - “Khi bạn ngồi nói chuyện với một cô gái dễ thương trong một giờ, bạn cảm giác chỉ như một phút. Nhưng nếu bạn ngồi trên một cái bếp nóng trong một phút, bạn sẽ cảm giác lâu hơn cả một giờ. Đó là tính tương đối của thời gian". Và ông cũng từng thừa nhận rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai “chỉ là một ảo tưởng, dù nó rất dai dẳng”. Nên thời gian không chỉ được đo bằng đồng hồ, mà còn bằng trải nghiệm và cảm nhận cá nhân. Một mùa hè thời thơ ấu, chăn trâu thả diều, tắm sông bắt cá, có thể dài bất tận. Trong khi đó, mấy năm trưởng thành lại trôi qua như một cái chớp mắt. Đi đây đi đó bao năm, về quê bước vào cổng trường cũ, ký ức lại ùa về nguyên vẹn như mới hôm qua. Ngôi trường hiện tại đã khác xưa nhiều, nhưng “ngôi trường” trong tâm trí thì vẫn ở đó, bất chấp mọi đổi thay của vật lý và đời sống. Nhưng hình như không phải chỉ có trường xưa, mà ... người xưa cũng vậy. Mình có quen biết nhiều ông anh Việt kiều, bao năm xa cách quê hương, luôn mơ ước, lặn lội về họp trường họp lớp để gặp lại người xưa. Rồi không biết có gặp được chưa, mà mấy năm nay ít khi nghe nhắc đến chuyện đó nữa :-) .

Tản mạn chút cho vui, chứ theo quan niệm của nhiều người thì thời gian đơn giản chỉ là những con số, một quy ước số học được đặt tên. Quả nhiên là vậy, tuy cùng một con số nhưng ý nghĩa thời gian luôn khác xa tùy theo cách sống của mỗi người. Năm tháng của một người trải nghiệm, dấn thân và cống hiến, khác hẳn với năm tháng của một người tự sướng, tự vỗ về để tồn tại. Thời gian của một người sống với mớ kiến thức vay mượn, lý thuyết "cao siêu", khác một trời một vực với thời gian của người sống trong tỉnh thức và thực chứng. Thời gian của những năm tháng tự do khác xa với thời gian của những năm tháng nhẫn nhục cam chịu. Thời gian của một người thèm khát danh vọng khác xa thời gian của một người sống tự tại buông xả ...v.v.  Bởi vậy có những kiếp sống ngắn ngủi nhưng trọn vẹn, để lại cho hậu thế bao giá trị đóng góp. Ngược lại, có những đời sống kéo dài trăm năm, nhưng khi ra đi cũng chẳng có gì để nhớ đến. Cho dù là ông này bà kia, chùa to chùa lớn, chức nọ chức kia, bằng này cấp nọ, mồ to mả đẹp… khi gặp “ông thần thời gian”, ai cũng phải ngả nón chào :-)

Tất nhiên, ở đây đang nói về cuộc sống đời thường, phàm phu, đầy rẫy ham muốn & dính mắc giống như mình. Chứ còn đối với các bậc trí tuệ, giác ngộ, hiểu rõ vô ngã, vô thường, thì mọi thứ chỉ là những điều kiện duyên khởi, đến rồi đi, chẳng có cái tôi cố định nào đứng đằng sau, nên chẳng có gì để dính mắc, mà cũng chẳng có ai để chứng minh, chứng đắc, hoặc ham muốn trở thành đấng nọ đấng kia.

À, bỗng nhớ đến một chuyện thú vị. Mình có anh bạn khá thân, từng dạy đại học ở nước ngoài nhiều năm, rồi về SG giảng dạy hơn chục năm trước, giờ an nhàn hưu trí ở Nha Trang. Cũng lâu lắm rồi, cách đây vài tuần mình mới gặp lại anh. Hai anh em ra vỉa hè, lai rai vài chai la-de, ngắm biển ngắm mây, nói đủ thứ chuyện rồi lan man sang Hermann Hesse: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (Und allem Weh zum Trotze bleib ich verliebt in die verrückte Welt). Vừa uống vừa cười nhớ lại một thời ngây ngô & đam mê... nhịn đói, suy tư & chờ đợi. (Siddhartha)

Và cũng rất tình cờ, hôm qua đang coi chương trình "Giấc mơ quê nhà" thì nhận được tin nhắn của anh từ Nha trang: "Rằm trên biển: Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?”. Tuyệt !

Mình vốn biết mấy câu thơ này của Bùi Giáng từ trước, nhưng bây giờ nghe lại thì cảm thấy rất hay. Với anh ấy, chắc còn gì tuyệt vời bằng một đêm rằm trên biển, ngửa mặt nhìn trăng mà nghĩ đến "Mai sau em về". Còn mình, vừa mơ màng nhìn cái cổng trường cũ, vừa thắc mắc không biết đến lúc kỷ niệm 80 năm thành lập trường lần tới, có còn giống như hôm nay không? Đang miên man suy nghĩ bỗng nhận được 2 câu thơ của BG, giật mình tỉnh rụi. Câu thơ hay, hợp thời điểm, nhưng “rằng thưa khen nữa là thừa”. Có lẽ trong đời sống, ai cũng từng có những khoảnh khắc tâm trạng như vậy, đó là lúc những thứ đơn giản nhất bỗng quay quắt trở thành điều ám ảnh:

Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?
(Bùi Giáng)

“Màu ấy” là màu gì? Là màu nguyên thủy của trăng, hay là sắc màu của một khoảnh khắc cụ thể ? Và “màu ấy” của người này có giống “màu ấy” của người kia không ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có câu trả lời giống nhau. (Trước hết, mình cũng chẳng dám áp đặt ý nghĩ của mình lên câu hỏi của Bùi Giáng, bởi biết đâu ông ta chỉ hỏi kiểu Sài Gòn Lục Tỉnh cho vui :-). Nhưng đời sống vốn đa dạng, từ quan điểm đúng sai, phải quấy, nhận định vấn đề, quan niệm học hành giáo dục, cho đến những chuyện nhỏ như họp trường họp lớp, tổ chức sự kiện, chương trình hát hò văn nghệ, ..v.v.. mỗi người đều có lý lẽ và cảm nhận riêng. Ai cũng có một cái “tôi” nhất định, mặc dù nhiều người chưa từng thực sự làm chủ cái “tôi” đó của mình. Nhưng dù "bản ngã" lớn hay nhỏ, nó vẫn luôn là “nhà độc tài” âm thầm quyết định mọi ý thức và hành vi của mỗi người. Bởi vậy, khi luận bàn một vấn đề gì mang tính công cọng hoặc lợi ích chung, mong đợi sự đồng thuận tuyệt đối quả là điều không dễ dàng chút nào. 

Trở lại chuyện màu trăng, ai cũng biết trăng trong thế giới tự nhiên thì luôn đổi thay, chẳng bao giờ giống nhau, dù chỉ cách nhau một giờ, một phút, huống chi là vài thế kỷ. Nên để trả lời “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” là những câu chuyện dài. Có người thấy trăng hôm nay vẫn y như xưa, nhưng có người lại thấy khác. Có người mong trăng sáng hơn tròn hơn, nhưng có người chỉ muốn trăng mãi giữ nguyên dáng vẻ thuở nào. Có người than rằng trăng nay không còn đẹp như thời hẹn hò mới lớn; lại có người quả quyết rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Có người bảo trăng của Bùi Giáng khác với trăng của Hàn Mặc Tử; lại có người bảo trăng dưới ao của Lý Bạch khác với trăng “khuyết nguyệt” của Tô Đông Pha...v.v

Rồi cũng có người cả đời mải ngắm ngón tay chỉ trăng, mà chưa từng thấy trăng màu gì. Và cũng có người cả đời chỉ biết đến vẻ đẹp của trăng qua chú Cuội, chị Hằng, hoặc qua thơ văn sách vở. Hoặc cũng có người chỉ nghe thấy trăng đẹp qua lời giảng giải của một ông giáo sư, tiến sĩ, một vị “cao tăng", hay "đại sư” nổi tiếng nào đó, mà chưa từng tự mình ngắm trăng một lần ! 

Đời sống là vậy, nhưng cũng biết đâu, chỉ một câu hỏi bâng quơ như vậy lại khiến ai đó đang nặng nề chữ nghĩa bỗng trở nên buông xả nhẹ nhàng, hoặc ít ra thôi không còn cuồng tín nữa. Hoặc biết đâu, từ câu hỏi “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” mà ngộ ra chân lý “nhìn sự vật như nó đang là”, để rồi phân biệt được cái nào thực, cái nào ảo, và không còn bám víu vào những “tin vịt tin gà” nữa. Âu cũng là chuyện hay :-).

Bởi thế, không ai có thể đoán được một hạt mầm ý niệm vô tình sẽ nảy sinh ra sao trong tâm mỗi người. Và xưa nay, những điều kỳ diệu trong cuộc sống thường bắt đầu từ những điều giản dị nhất.

Thôi, lan man chút cho vui buổi sáng cuối tuần. Chúc mọi người an nhiên, hạnh phúc.

PN

Sunday, June 08, 2025

Tản mạn: Lối mòn tư duy... (A well-worn mental path)


Khi nói đến “lối mòn tư duy”, hay những thói quen suy nghĩ và sự chấp trước của con người, có lẽ ít ai xác định được nó bắt đầu từ đâu. Có thể nó đã đồng hành với con người từ thuở sơ khai, hàng ngàn năm về trước. Với nhiều người, đó không còn là một phát hiện mới mẻ, mà gần như là một đặc tính cố hữu của con người, và chắc chắn, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cùng chúng ta trong nhiều thế hệ tới.

Tuy nhiên, gần đây, những chủ đề về thói quen suy nghĩ và khả năng phân tích vấn đề của con người được nhắc đến nhiều hơn. Song song với đó là sự xuất hiện nhiều tranh luận hoài nghi về năng lực “nhận thức” của con người, đặc biệt khi nói đến hiệu ứng đám đông và khả năng phân biệt "đúng, sai" của họ trong đời sống xã hội thường nhật. Có lẽ một phần nguyên nhân xuất phát từ việc thế giới trải qua quá nhiều biến động, xã hội bất ổn, công nghệ thay đổi chóng mặt, thông tin lan truyền nhanh chóng, thật giả lẫn lộn… Tất cả khiến lòng người trở nên hoang mang và mất phương hướng. Trong hoàn cảnh ấy, con người thường có xu hướng tìm kiếm một điểm tựa tinh thần, một nơi để đặt niềm tin, cho dù chỉ là tạm thời.

Thế nhưng mỗi người lại có một xuất phát điểm, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Vậy dựa vào đâu mới là đúng? Làm sao để phân biệt được "đúng, sai" giữa muôn vàn quan điểm trái chiều và mâu thuẫn, bội thực thông tin ? Chính trong những lúc như vậy, “lối mòn tư duy” lại âm thầm phát huy sức mạnh, bởi nó mang lại cảm giác quen thuộc, an toàn, không cần phải đặt lại câu hỏi hay thay đổi góc nhìn của bản thân. 😊

Thật ra, đây là một đề tài vừa sâu sắc, vừa đầy thách thức. Từ xưa đến nay, ai cũng biết lịch sử văn hóa và môi trường sống luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành vi của con người. Trong những năm gần đây, khi công nghệ AI phát triển mạnh mẽ, các lĩnh vực nghiên cứu về tư duy và hành vi con người lại càng được chú trọng hơn, như một nỗ lực để hiểu rõ hơn về chính bản thân chúng ta trong một thế giới đang thay đổi từng ngày.

Nhìn lại bản thân, ngay từ khi còn nhỏ mình đã từng được “nghe”, được “biết” đến những điều mà chưa bao giờ tự mình kiểm chứng. Ví dụ như nghe dân tộc này thông minh, dân tộc kia anh hùng; người vùng này hào phóng, người vùng kia keo kiệt; miền này học giỏi, miền kia ham chơi; xứ này hay cãi, xứ kia hay co... Lớn lên một chút, lại tiếp tục bị nhồi nhét vào đầu những định nghĩa cứng nhắc cái này là đúng, cái kia là sai; làm như thế này mới là “yêu nước”, làm như thế kia mới là “anh hùng”; học giỏi như ông A, ông B thì mới được trọng vọng; trở thành bà nọ bà kia thì mới được xem là thành công; tu hành theo cách này mới là chánh pháp, theo cách kia là tà đạo..v.v.&.v.v...Và cứ thế, vô số hình tượng, khái niệm, nhận thức (dù đúng hay sai), cùng với những tập tục, thói quen, phương pháp suy luận được nạp vào đầu óc non trẻ từ rất sớm như những định đề tự nhiên, những khuôn mẫu xã hội hay quy ước vùng miền, trước cả khi mình có đủ trải nghiệm và khả năng tư duy độc lập để tự nhận thức, tự kiểm chứng xem điều gì là đúng, điều gì là sai.

Nhưng đó không phải là trường hợp cá biệt của riêng mình, mà là một thực trạng phổ biến hầu như ai cũng từng trải qua. Có người cho rằng sự khác biệt trong tư duy bắt nguồn từ việc gia đình này giáo dục tốt hơn gia đình kia, trường này có chất lượng hơn trường nọ, quốc gia này văn minh hơn quốc gia khác, hoặc thậm chí là do người này thừa hưởng “gen trội” hơn người kia..v.v. Mỗi người có thể tin vào những nguyên nhân khác nhau, nhưng xét cho cùng, phần lớn chúng ta đều được hình thành từ thuở ấu thơ bởi một “mớ” kiến thức được tích lũy từ gia đình, địa phương, nhà trường và môi trường sống xung quanh, những điều mà ta vẫn lầm tưởng là “trí tuệ” của chính mình.

Thực ra, chính ở giai đoạn tuổi thơ và thời tiểu học, trung học (bậc giáo dục phổ thông) mới là thời điểm quan trọng, bởi khi đó cái “tôi”, cái “riêng”, tức là hạ tầng tư duy, quan niệm và nhận thức, bắt đầu được định hình. Nó giống như một hệ điều hành âm thầm được cài đặt vào bộ máy tư duy của mỗi con người. Và phần lớn chúng ta lớn lên, mang theo hệ điều hành ấy như một điều hiển nhiên, ít ai nghi ngờ hay đặt lại câu hỏi. Tất nhiên, khi càng trưởng thành, càng học rộng hiểu nhiều, càng gặt hái nhiều thành tựu, càng trải nghiệm nhiều với những được mất trong đời, thì vị trí của cái “tôi” trong mỗi con người càng được củng cố và bảo vệ. Đó là điều hết sức bình thường trong quá trình phát triển cá nhân. Tuy vậy, cũng không thiếu những trường hợp ngược lại, chính vì cái “tôi” quá lớn, quá cố chấp mà dẫn đến thất bại, mất mát, thậm chí là cuộc sống bất an, hoài nghi, đầy oán trách, và dằn vặt. Khi cái tôi không được nhìn lại, không được đặt đúng chỗ, nó có thể trở thành rào cản ngăn con người sống nhẹ nhàng, rộng mở và cảm thông với chính mình lẫn người khác. Một số ít khi bị thất bại hoặc trở ngại trong cuộc sống, đôi lúc quá bận rộn tìm cách đổ thừa hoặc oán trách người khác, mà đã quên nhìn lại cái "tôi" hoặc lối mòn tư duy của mình, nên mất đi cơ hội hiểu thêm về bản thân, quả là đáng tiếc. Bên cạnh đó, cũng tồn tại sự nhầm lẫn giữa tự ái và tự trọng gây ra nhiều phiền phức. Trên thế giới có những dân tộc lòng tự trọng rất cao, nhưng cũng có những đất nước giàu lòng "tự ái", nên dẫn đến những văn hoá ứng xử khác nhau. Và đó cũng là những chuyện thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Mở ngoặc chút, trong Duy Thức học, có giải thích “cái tôi vĩ đại” của con người có liên quan trực tiếp đến Mạt Na thức (thức thứ 7), bạn nào muốn nghiên cứu thêm về lãnh vực này thì nên đọc, rất hay. Còn đối với một số người tu học chân chính theo PG, họ thường thực hành theo những phương thức khác nhau như thiền tuệ, buông xả, sống tỉnh thức, chánh niệm v.v.. Cốt lõi không phải để đạt được điều gì to tát hứa hẹn, hoặc để chứng đắc quả gì, hoặc thần thông hay công đức gì, mà chỉ đơn giản là để tự nhận ra sự thật từ bản thân - vốn không có một cái tôi cố định nào đứng đằng sau những thực thể và cảm xúc "cá nhân" của họ, mà đó chỉ là những “điều kiện” đến rồi đi. Không có ai để đạt được điều gì, mà cũng không có ai cần để chứng minh hay thể hiện điều gì. Khi thấy ra nhận ra được điều đó lần hồi những dính mắc và tham ái cũng không còn chỗ để bám víu nữa. Vậy thôi. Và đó cũng là phần quan trọng của khái niệm "vô ngã", mấu chốt nhất trong giáo lý PG).



Trở lại chuyện đời thường. Khi quan sát và hiểu thấu bản thân nhiều hơn, không ít người nhận ra rằng chính những tri thức được xây dựng trên nền tảng tư duy mặc định mang tính lý thuyết, vốn được tiếp nhận một cách vô thức từ môi trường sống, đã đưa con người ngày càng tiến gần hơn đến quan điểm “nhị nguyên” với những cặp phạm trù đối lập như đúng sai, thắng thua, đẹp xấu, được mất, thành bại, hạnh phúc khổ đau..v.v... Những cặp phạm trù tưởng chừng như tự nhiên ấy dần dà trở thành khuôn mẫu chi phối cảm xúc, hành vi, và cách nhìn đời. Và cũng từ đó, bao nhiêu tham, giận, sân, si âm thầm sinh khởi, len lỏi và vận hành trong suốt hành trình cuộc sống, hiện diện khắp nơi, đôi khi rất mạnh mẽ, mà ta lại hoàn toàn không hay biết.

Từng ngày, từng giờ, cuộc sống quanh ta vẫn đầy rẫy những nhận thức và suy nghĩ xuất phát từ những “lối mòn tư duy” nào đó, vốn được xây dựng từ nền tảng cái tôi cá nhân và hệ điều hành tinh thần mà ta vô thức thừa hưởng. Bạn bè, người thân, gia đình, và cả chính bản thân mình, không ai thật sự thoát khỏi sự chi phối của những khuôn mẫu tư tưởng ấy.

Từ những chuyện tưởng chừng rất đời thường như con cái học ngành gì, cưới hỏi ra sao, nhà xây mấy tấm, tiệc đãi mấy bàn… cho đến những câu chuyện xa xôi hơn, đi mây về gió bên Tây, bên Mỹ, xứ người. Nhiều người cả đời đã phải gồng mình chịu áp lực từ công việc mưu sinh, tha phương cầu thực, nhưng trong lòng vẫn cánh cánh một gánh nặng mang tên "quê nhà", nơi mà sĩ diện, hơn thua, và những nhu cầu “liền chị liền em” đã trở thành những chuẩn mực vô hình. Bởi vậy, dù mỗi người có hoàn cảnh và cách nghĩ khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều ít nhiều mang theo dấu vết của những lối mòn tư duy cũ kỹ , như đã ăn sâu vào tiềm thức từ rất lâu. Những chuẩn mực ấy không chỉ tạo ra áp lực tâm lý nặng nề, mà còn tiếp tục đè nặng lên thế hệ sau bằng cách định hình một lối mòn suy nghĩ và hành xử, y như cái khuôn mà thế hệ trước từng bị đóng vào. Trong dòng chảy đó, không ít người đánh mất chính mình, sống theo ánh nhìn và sự khen chê của người khác, chạy theo kỳ vọng của đám đông mà không còn nghe thấy tiếng nói từ nội tâm. Họ lầm tưởng rằng mình đang gìn giữ “giá trị truyền thống”, nhưng thực chất, nhiều người chỉ đang vô thức trở thành nô lệ của những “di sản” tư duy lối mòn, một thứ ràng buộc vô hình. Những xiềng xích ấy lẽ ra cần được tháo gỡ, nếu ta thật sự mong muốn tìm lại sự tự do đích thực trong tâm hồn.

Nguy hiểm hơn, lối mòn tư duy không dừng lại ở những lựa chọn cá nhân nhỏ nhặt. Nó còn ngấm ngầm điều phối cả những vấn đề lớn lao hơn trong đời sống. Từ cách ta nhìn nhận người khác, đến cách ta phán xét, quy chụp, lập luận, thậm chí dẫn dắt dư luận đi đến những kết luận sai lầm. Đáng lo ngại là nhiều người phát ngôn hoặc lan truyền những suy nghĩ lệch lạc hoặc tin tức sai trái, lại không hề nhận ra sự sai lệch trong tư duy của chính mình. Khi tư duy bị đóng khung mà không được phản tỉnh, nó không chỉ giới hạn cá nhân, mà còn có thể trở thành rào cản cho cả sự phát triển của một cộng đồng.

Hãy thử quan sát kỹ một hiện tượng cuồng tín trong xã hội, một cuộc bầu cử ở một quốc gia dân chủ, hay một cuộc tranh luận về vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc”… thậm chí chỉ là những bất đồng trong buổi họp lớp, họp đồng hương, hay thậm chí một cuộc họp mặt gia đình. Ở đâu cũng thấp thoáng bóng dáng của những lối mòn tư duy. Có thể cùng hướng hoặc trái chiều, nhưng đều xuất phát từ những khuôn khổ nhận thức đã được định hình bởi địa phương, văn hóa, hay hoàn cảnh sống mà chúng ta ít khi ngoái đầu nhìn lại.

Tất nhiên, Đông hay Tây, đã là con người thì khó tránh khỏi những rào cản tâm lý này. Ngoại trừ một số ít những bậc giác ngộ, còn lại từ bậc trí giả đến kẻ phàm phu, từ người quyền quý đến người nghèo khổ, thật ra cũng không ai giỏi giang gì hơn ai về mặt “thoát khỏi khuôn mẫu”. Mỗi người chúng ta đều có một hoặc nhiều "lối mòn tư duy" khác nhau, không ai hơn ai, chỉ là người nào khác ta, thì ta cho rằng họ sai ta đúng mà thôi :-). Thậm chí, người "học rộng hiểu nhiều" có khi lại càng bị trói buộc trong lối mòn tư duy sâu thẳm so với người bình dân. Lắm khi, càng đạt được những “thành tựu” theo chuẩn mực của đời thường, thì cái tôi lại càng phình to ra, lối mòn tư duy càng trở nên trơn tru, khó lòng nhận diện.  

Mình nhớ có một ông chú quen đồng hương, học vị khá cao, tên tuổi nhiều người biết đến. Mỗi khi hỏi chuyện về ai đó ở quê nhà, chú thường hỏi: “Nó là con ai, cháu ai?” Mình thấy lạ vì ở nước ngoài it gặp chuyện như vậy. Có lần mình thắc mắc: “Vậy con ai, cháu ai thì có liên quan gì đến giá trị mà người đó đóng góp cho xã hội? Chẳng lẽ gen di truyền, tài sản ông bà, hay chức vụ cha mẹ lại quyết định hết thảy giá trị một con người?” Với trình độ và hiểu biết như chú, chắc chắn chú cũng biết rằng rất nhiều nhân vật kiệt xuất trên thế giới từng có xuất thân hết sức bình thường. Và ngược lại, ngay chính trên quê hương của chú, chắc cũng không thiếu những người có lý lịch "tốt đẹp" nhưng lại chẳng làm nên điều gì đáng nói ? Tuy nhiên hỏi là hỏi vậy, chứ thực ra cả hai đều đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân vấn đề "thích truy tìm nguồn gốc" của chú. Âu đó cũng là một lối mòn tư duy :-).

Thực tế, ở phương Tây hoặc tại một số quốc gia châu Á phát triển, người ta thường chú trọng đến năng lực và tư cách đạo đức của con người ở thời điểm hiện tại hơn là xuất thân hay quá khứ. Họ có xu hướng quan tâm đến những sự việc và sự kiện cụ thể đang diễn ra trước mắt, thay vì tin vào tin đồn, suy diễn, hoặc những lời truyền miệng thiếu kiểm chứng. Trong khi đó, tại VN, đặc biệt là ở một số vùng miền nhất định, tư duy "nghe ngóng", "đoán già đoán non", thậm chí là khả năng “nghe một đoán mười” lại được xem là biểu hiện của sự lanh lợi, khôn ngoan. Nhưng ít ai đặt câu hỏi liệu đó có thực sự là sự nhạy bén, hay chỉ là biểu hiện của một kiểu tư duy lệch lạc, cảm tính và đầy định kiến chủ quan. 

Còn chuyện điều tra “lý lịch ba đời” thì vẫn tồn tại như một thói quen, thuộc tính cố hữu của một số vùng miền. Dù lý lịch ấy không nói lên được điều gì cụ thể về năng lực hay đạo đức, nó vẫn được xem như một chuẩn mực mặc định để đánh giá con người. Điều đáng nói là ngay cả khi đã sống ở nước ngoài nhiều năm, không ít người vẫn mang theo lối tư duy đó như một "hành trang" vô hình, một lối mòn tư duy chưa từng được nhìn lại.

Thôi dài quá rồi, mình xin dừng lại nơi đây. Nôm na, buổi sáng hôm nay bắt đầu thật nhẹ nhàng, dự định uống cà phê, ngắm hoa, nghe chim hót, rồi cắt mớ rau muống vô nấu canh bún riêu cua. Thế mà tình huống dẫn dắt thế nào, câu chuyện lại lan man sang buổi chiều với những suy ngẫm về “đường xưa lối cũ”. 

Thực ra, lâu nay mình cũng ít khi theo dõi tin tức chính trị thời sự bên Mỹ. Thế nhưng mấy hôm nay, quý ông bạn già của mình ở đây, rôm rả nhắn tin, gọi điện, bàn tán hào hứng về vụ ông tỷ phú Musk chia tay "ly dị" với ông tt Trump. Có người độc đảng (chỉ thích cơm hoặc phở), có người lưỡng đảng (khoái cả 2 bên), có người "vô đảng" (không theo phe nào), có người “du đảng” (lúc theo bên này, lúc thích bên kia), và có cả ông “lãng đãng” (lúc nhớ lúc quên), cho nên những câu chuyện trở nên màu mỡ, lối mòn dẫm chéo lên nhau, tô vẻ đầy màu sắc !

Nhưng đã gọi là “lối mòn tư duy” thì đâu thể chỉ dừng lại ở “chuyện hai đứa chúng mình của ông Trump và Musk”. Câu chuyện của các anh, các chú, thường phải đi một vòng từ xóm thượng xuống xóm hạ, từ cánh phải sang cánh trái, có đầu có đuôi, kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông… Nói chung là từ thời tiền MAGA năm trước, cho đến hậu MAGA hôm nay, không thiếu một chỗ nào. May là mấy hôm nay trời mưa, mình không phải tưới rau, ngồi nghe :-).

Riêng mình, lâu nay vẫn tin vào thuyết duyên khởi, đạo lý nhân quả & vô thường. Nên mọi chuyện xảy ra trên đời, theo mình đều là kết quả của những điều kiện hội đủ, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không có gì ngoại lệ.

Vậy nên mình ngày càng ít quan tâm đến mấy chuyện chính trị chính em, đặc biệt là kiểu chính trị chửi bới, đâm chọt, dựng chuyện, gieo rắc thù hằn và chia rẽ lẫn nhau. Dù bên nào thắng hay thua, ma da hay ma cà rồng, thì với mình, điều đó chưa hẳn phản ánh trí tuệ hay đạo đức thực sự của họ. Theo quan niệm của mình, chê bai người khác là “xấu” không đồng nghĩa với việc mình là “tốt”. Lại càng không thể dựa vào những câu chuyện ngớ ngẩn vô căn cứ trên mạng, hay lối tư duy thiển cận để nhục mạ, bôi nhọ người khác rồi xem đó như một minh chứng cho sự hiểu biết của bản thân. Vì thực ra, hành vi đó thường chỉ nói lên điều ngược lại, rằng người cố tình phát ngôn phát tán tin tức lệch lạc đang thiếu đi chính điều mà họ cố tỏ ra mình sở hữu.

Chính vì thế, không nhất thiết phải lao vào những cuộc tranh luận một chiều. Thay vào đó, nên lùi lại quan sát, lắng nghe và nhận biết vấn đề một cách khách quan. Bởi sau cùng, kết quả thực tế mới là câu trả lời rõ ràng nhất. Mình chỉ mong rằng ai thắng cũng lo được việc cho đất nước, làm điều tốt, đừng gây thêm khổ lụy cho người dân đen dễ tin, dễ biểu, và thấp cổ bé họng.

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo)
Nguyễn Trãi

Nhìn lại cái đạo lý trị nước an dân của các tiền nhân ngày xưa như cụ Nguyễn Trãi quê ta, hoặc cách thức an dân kiến quốc của những vị tổng thống tài ba của đất nước HK ngày trước, rồi nhìn thực tế hôm nay quả nhiên là xa lạ. Tuy nhiên cũng có một thứ hơn hẳn ngày xưa, đó là bất kỳ lúc nào, những kênh truyền thông chính thống trên thế giới và các kênh YouTube tạp nham đều có những tin tức hoặc đề tài giựt gân, giựt tít, để đăng tải và câu viu :-).

Tản mạn chút cho vui, nhưng tất nhiên hy vọng lớn nhất vẫn là sẽ có lúc nào đó, mỗi người chúng ta chịu dừng lại để lắng nghe, để quan sát, để thấu hiểu bản thân nhiều hơn, để soi lại những lối mòn tư duy đã in hằn trong tâm trí lâu nay. Để cuộc sống cân bằng hơn, bớt đi định kiến, bớt đi lệch lạc, và mỗi sớm mai thức dậy có thể uống ly cà phê với tâm hồn nhẹ nhõm, tỉnh táo, và an nhiên hơn.

Chúc mọi người một cuối tuần an vui và đầy nắng ấm.

PN