Quách Tấn và chùa Ông Núi :
Đi tìm lại đám mây trắng trên mái chùa xưa.
(Thích Phước An)
Cách làng quê tôi chừng năm cây số có một ngôi chùa dù có tên chính thức là chùa Linh Phong, nhưng người dân sống quanh vùng núi này từ bao đời nay vẫn thường quen gọi là chùa Ông Núi.
Hồi còn là chú tiểu ở vùng quê này, hể cứ mỗi lần Tết hoặc các ngày kỵ tổ thì thầy tôi vẫn thường dẫn tôi đi theo. Vì chùa nằm tận trên đỉnh núi, từ chân núi lên đến chùa đi bộ phải mất chừng nửa tiếng. Với cái nhìn của tuổi thơ thì đường lên núi chừng ấy giờ quả thật là đường quá dài và núi quá cao.
Nhưng nếu đến chùa vào những ngày cuối năm thì thấy chùa lại càng cao hơn nữa. Vì vào những ngày cuối đông ấy chùa lúc nào gần như cũng bao phủ bởi mây trắng và sương mù.
Cái hình ảnh và ngôi chùa và những tháp cổ chìm ngập trong khói sương và mây trắng từ những ngày còn thơ ấy lúc nào cũng sống đậm đà trong ký ức xa xôi của tôi.
Bởi vậy, khi lớn lên mổi lần đọc được bài thơ nào có nhắc đến chùa và mây trắng thì bài thơ ấy tất nhiên đối với tôi phải là bài thơ hay nhất.
Nhưng bây giờ thỉnh thoảng có những lúc tâm thức hoang mang tôi đâm ra nghi ngờ và băn khoăn tự hỏi: liệu cái hình ảnh đầy thi ca ấy, cái hình ảnh một nhà sư sống trên núi cao trong một thảo am mà một nửa thì cho những đám mây trời còn một nửa thì để cho nhà sư như bài thơ của một nhà thơ Trung Quốc nào đó đã mô tả, hay Nguyễn Du của Việt Nam cũng có hai câu tương tự như vậy.
Cổ tự vô danh nan vấn tấn
Bạch vân thâm xứ ngoạ sơn tăng.
(Chùa cổ không có tên, khó hỏi thăm
Trong tầng núi cao mây trắng che đầy, có nhà sư đang nằm ngủ).
Chỉ còn là một hình ảnh mơ mộng hão huyền của những kẻ đa sầu đa cảm, một hình ảnh đã hoàn toàn lạc điệu giữa một xã hội quá thực dụng như xã hội hiện nay chăng?
Những lúc mà tâm hồn bị xao động như vậy, thì lập tức tôi lại viện dẫn đến hai câu thơ khác cũng của Nguyễn Du :
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung
(Những người bạn thân tình quen biết đều chê trách tôi sao hay sầu, hay mộng
Tuy nhiên, có ai trong cõi người ta mà không ở trong mộng?)
Như vậy là tôi tự lý luận rằng, tiền tài, danh vọng, quyền hành, địa vị và sắc dục, tức là những thứ mà người có đầu óc thực dụng phải tốn biết bao công sức để đạt cho kỳ được, chắc chắn một ngày nào đó không xa cũng phải tan tành theo mây khói. Đã biết như vậy mà vẫn cố bám víu giữ lấy một cách tuyệt vọng thì không gọi là kẻ đang ở trong mộng thì còn gọi là gì nữa chứ?
Còn hạng người thứ hai biết cuộc đời là mộng, nên họ cố đưa tâm hồn mình vươn lên khỏi những phiền toái của cuộc sống hằng ngày bằng cách, nói theo D.T.Suzuki:
“ Quả thực, đó há không phải là cái mà người ta có thể tìm kiếm trong thế giới cạnh tranh và hư nguỵ này. Một góc phòng, dù nhỏ nhoi, mà nơi đó người ta có thể vượt lên những giới hạn của tương đối để có một thoáng nhìn vào vĩnh cửu sao?
(Thiền luận quyển hạ - Tuệ Sỹ dịch )
Ông Núi thuộc mẫu người trên nghĩa là một mẫu người từ trong hữu hạn cố vươn lên để bước vào cánh cửa của vô hạn.
Chùa Ông Núi,
Nhưng vì sao gọi là chùa Ông Núi ?
Theo Quách Tấn, trong Nước Non Bình Định thì:
“…Người địa phương gọi là Ông Núi, vì thấy nhà sư tu ở trên núi suốt năm.
Truyền rằng, Ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, và ít khi xuống đồng bằng. Thỉnh thoảng cần lương thực thì gánh một gánh củi xuống chân núi để nơi ngã ba đường rồi trở lên. Người quanh vùng đem muối gạo đến để đó rồi gánh củi về dùng. Hôm sau nhà sư đến nhận muối gạo, nhiều ít không biết, mất còn không bận. Nhưng những khi trong hạt có bệnh dịch, thì tự nhiên nhà sư đem thuốc xuống núi cứu chữa. Chữa xong đi ngay, một cái vái chào cũng không nhận.”
Tác giả Thích Phước An (thứ 2 từ trái) cùng trò chuyện với nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn
(thứ 2 từ phải qua)
(thứ 2 từ phải qua)
Nhưng rồi một hôm, những người đốn củi, những đứa trẻ chăn trâu lên núi nhìn vào hang đá nơi Ông Núi tu Thiền thì không thấy ông nữa. Tương truyền rằng, Ông Núi vì cảnh lầm than của nhân dân trước sự chuyên quyền của nịnh thần Trương Phúc Loan mà bất lực không làm gì được để chia xẻ bớt cảnh lầm than cơ cực ấy của dân, nên đành phải đau lòng mà bỏ ra đi…
Năm 1885, Đào Tấn đang làm Thượng thư bộ công cho triều đình Huế thì đột ngột từ quan về quê lên chùa Ông Núi tu Thiền gần cả năm. Đào Tấn tự nhận mình là Tiểu Linh Phong Mai Tăng. Trong thời gian ẩn tu ở đây, Đào Tấn có để lại bài thơ được khắc trên một hòn đá hiện vẫn còn, bài thơ ấy như thế này:
Bách bát chung thinh khước thọ điên
Ngẫu tuỳ ngâm tuyết khấu đàn Thiền
Thập niên hồ hải quy lai mộng
Nhất cảnh yên hà tự tại thiên
Giai sĩ từ bi ninh thị Phật
Sơn ông danh tự bán nghi tiên
Thanh tuyền tế ẩm chân tri sự
Bất phụ nhân gian phất diễm truyền
Đặng Quý Địch, một nhà sưu tầm và nghiên cứu Đào Tấn ở Bình Định đã dịch ý bài thơ ấy như thế này:
Một trăm linh tám tiếng chuông của hồi chuông Bát Nhã lướt nhanh trên đám cây.
Ta chợt hứng, vừa ngâm thơ bạch tuyết vừa theo hướng tiếng chuông phát ra mà đến làm lễ trước thạch đàn của Thiền sư.
Ta mười năm lăn lóc ở chốn hồ biển thường ước mơ được trở về với cảnh điền viên.
Nay đứng trước cảnh khói sớm ráng chiều ngỡ rằng trời dành riêng cõi này cho lòng ta tự tại.
Ta là kẻ sĩ hiền lành, thì nết na cũng như tánh Phật
Còn Thiền sư tên gọi là Ông Núi khiến lòng ta ngỡ là tiên.
Ta uống từng ngụm nước nhỏ trong lành ở con suối này mà ngẫm biết sự thật về cuộc đời của bậc Thiền sư.
Vì Thiền sư đã không phụ với người đời, nên hương thơm vẫn được truyền khắp từ xưa đến nay.
Sau đó không lâu, Đào Tấn lại bị triệu ra Huế làm quan trở lại. Dù sống trong cảnh vinh hiển giữa chốn triều đình nhưng mỗi lần cúi xuống nhìn lại chính mình thì Đào Tấn vẫn xem đó như là thứ bụi đường bẩn đang bám vào chiếc áo phong trần của ông mà thôi, và lúc nào cũng mong ước về lại ngôi chùa xưa, nơi mà dường như một lần Đào Tấn đã thoáng thấy được cảnh huyền vi của đạo Thiền:
Vi tiếu lậu Thiền ky
Phong trần không mãn y
Linh Phong tam thập tải
Vị kiến thử Tăng quy
Miệng mỉm cười như để lộ lẽ huyền vi trong đạo Thiền.
Mà gió bụi đã bám đầy áo
Chùa Linh Phong đã ba chục năm nay
Chưa thấy lão tăng này trở về.
( Mai Tăng tiểu chiếu )
Sau Đào Tấn gần một thế kỷ là Quách Tấn, người mà Phạm Công Thiện đã gọi là:
“ Một Phật tử trọn vẹn, đã thu tóm tất cả những thơ mộng của Phật giáo vào trong cụôc đời trầm lặng của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời thượng”.
Quách Tấn đến chùa Ông Núi vào một buổi chiều mùa hè, đến để tìm lại cho được cái hang đá mà Ông Núi đã từng tham Thiền nhập định nhưng “hang đã bỏ vắng lâu đời, đường vào hang gai rấp, cửa vào hang mây phong”.Chẳng tìm thấy vết tích của Ông Núi đâu hết, chỉ còn lại cái tháp vọng Ông Núi đứng trơ vơ trong nắng chiều.
Có chăng? Chẳng mất: người trong tháp
Có đó, mà không: núi ẩn cây
( Nước Non Bình Định )
Bởi vậy nên thi nhân chỉ còn biết :
Đành gởi nhớ thương trong ký ức
Nghìn sau khói nhạt mối tình xưa
( Nước Non Bình Định )
Dù không tìm thấy dấu chân của Ông Núi đâu hết, nhưng Quách Tấn đã tìm thấy được một buổi chiều, một buổi chiều mà Quách Tấn đã ghi lại bằng những câu rất đơn giản, nhưng sau những câu đơn giản đó, ta có cảm tưởng như có một màu xanh vĩnh cửu đã chớm dậy trong hồn của thi nhân:
“ Người đến viếng chùa, lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ. Ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa hẳn cõi trần tục:
Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non
Nếu không có tiếng chuông lay mộng, thì mộng còn mãi trong bóng mây ráng…”
( Nước Non Bình Định )
Đọc mấy dòng đơn giản trên tôi chợt nhớ có một người yêu thơ QuáchTấn đã nhận xét: “Người thơ chỉ sống trong một thoáng cũng bằng kẻ phàm trần sống một đời dài khi lòng mất đi cái bản chất thanh tịnh của thiên nhiên” (Trích Hương thơ Quách Tấn ).
Đúng là ta có sống đến một vạn buổi chiều đi nữa cũng không bằng Quách Tấn sống trong một buổi chiều trên chùa Ông Núi cách đây hơn nửa thế kỷ.
Ông Núi như vậy có lẻ cũng giống như bao nhiêu bậc hiền nhân vô danh khác đã đến và đi trên cuộc đời này như con nhạn bay qua giữa bầu trời trong xanh (Nhạn quá trường không ) mà không hề lưu lại vết tích.
Mặc dù vậy, trên đường đến cũng như lúc viếng chùa trở về, Quách Tấn dường như lắng nghe được tiếng bước chân của Ông Núi gánh củi xuống núi qua tấm lòng nhớ thương của bao thế hệ người dân đã sanh và lớn lên ở vùng núi này đối với ngôi chùa cũng như đối với Ông Núi:
“ Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, với một giọng hát thật thà, hồn hậu. Hát những bài hát về chùa Ông Núi, khi thì thánh thót như:
Cây che đá chất chập chùng
Biển giăng đầu núi chùa lồng trong mây.
Bụi đời không gợn mảy may
Chút thân rộng tháng dài ngày thảnh thơi
Khi thì ngậm ngùi chứa đôi nổi u hoài như :
Ông Núi đi đâu
Bỏ bầu sơn thuỷ
Đủ nhân đủ trí
Thêm vĩ thêm kỳ…
Chùa xưa nhạt bóng tà huy
Xui lòng non nước nặng vì nước non
( Nước Non Bình Định )
Sự phát triển và tiến bộ của thế giới công nghiệp hiện đại đã đưa con người đối mặt với sự nghèo đói khác còn nguy hiểm hơn cả sự nghèo đói về vật chất nữa. Đó là nghèo đói về tinh thần.
Giáo sư Lê Triều Phương hiện đang sống và làm việc tại Đức, một nước công nghiệp hàng đầu của thế giới hiện nay đã viết rằng: “Trong thế giới công nghiệp người ta thường nghe đến ý tưởng tiến về quá khứ.Tại sao không quay lui vào quá khứ, mà lại tiến về quá khứ? Tại sao bao nhiêu thế hệ thanh niên các nước công nghiệp khi trưởng thành, đều nhận thức rằng, mình đã dầm người đến độ chán chường trong đời sống máy móc ào ạt, ồn ào, tiêu thụ và bị bắt buộc phải tiêu thụ, dù mình muốn hay không. Họ thấy mình bị đánh mất sự thanh tĩnh và tự tại của quá khứ và cố gắng đi tìm chúng trở lại..” ( Trích Hương thơ Quách Tấn )
Điều giáo sư Lê Triều Phương nói đúng như nhan đề của cuốn sách viết bằng tiếng Anh mà tôi đã ngẫu nhiên vừa mới đọc được là Hunger in the time of plenty. Bởi thế, những ngôi chùa tiêu biểu như chùa Ông Núi chẳng hạn thì ngày nay dường như đã không còn nữa. Hay nói đúng hơn là bốn bức tường của chùa thì vẫn đứng đó nhưng “cái hồn” của những ngôi chùa xưa thì đã mất rồi.
Quách Tấn băn khoăn đi tìm “cái hồn” của những ngôi chùa đã mất ấy.
Có ai ngờ được rằng, giữa một thành phố Nha Trang tân tiến và hiện đại, giữa dòng “ngựa xe như nước, áo quần như niêm” này, có một buổi chiều Quách Tấn một mình đã ngơ ngác đi tìm “cái hồn” của những ngôi chùa ấy:
Đi ngang qua đường Hai Chùa
Nhìn cây me cỗi lòng chua xót lòng
Hai Chùa xưa đứng song song
Đường Hai Chùa đó sao không thấy chùa.
( Xứ Trầm Hương )
Hoặc có khi trong “những đêm buồn tỉnh giấc” Quách Tấn bàng hoàng chợt hỏi :
Chùa đâu ? Chuông trở lạnh !
( Giọt Trăng )
Nỗi ngậm ngùi này dường như cứ đeo đuổi mãi trong suốt toàn bộ những tác phẩm của Quách Tấn.
Trong một chuyến về thăm quê mới đây, tôi có lên thăm lại chùa Ông Núi. Buổi chiều trên núi vắng vẻ, tôi đứng lại nhìn cổng Tam Quan, vẫn như thủa nào, nghĩa là vẫn con đường đất nhỏ dẫn vào chùa, vẫn mấy cây đa già đứng đó như không hề biết rằng đã có biết bao lớp người đến rồi ra đi không bao giờ trở lại để cùng với chúng lắng nghe niềm tịch mịch của những buổi chiều heo hút ở đây.
Tôi đi lên phía Tây của chùa, lội qua con suối nhỏ. Con suối mà tôi tin chắc rằng hồi xưa thế nào khi đốn củi hoặc ngồi Thiền xong, Ông Núi cũng ra đây rồi ngồi trên những hòn đá nhỏ này để nghĩ mệt. Qua khỏi con suối nhỏ, tôi leo lên một tảng đá lớn, hòn đá mà lần viếng chùa cách đây hơn nửa thế kỷ Quách Tấn thế nào cũng đã ngồi nhìn về phía trước mặt như một câu thơ của Trần Nhân Tông:
Bán vô bán hữu tịch dương biên
(Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không.)
“… Lẫn trong màu sắc của đồng ruộng mênh mông, từng chùm từng khoảnh nổi lên màu lục đậm của cây, màu xam xám hoặc đo đỏ của chợ quán, nhà cửa, chùa đền… ẩn hiện dưới bóng mây làn khói”
(Nước Non Bình Định)
Ngồi trên tảng đá rồi nhìn buổi chiều đang xuống chậm trên núi rừng u tịch, lòng tôi bổng chợt u hoài nhớ về những năm cuối đời nhiều phong ba bão táp của Quách Tấn.
Nhưng chừng như càng bão táp bao nhiêu, thì tâm hồn của ông càng hướng về chùa chiền bấy nhiêu, dù chùa chiền lúc ấy cũng bất an chẳng khác gì cuộc đời của thi nhân:
Nhớ chùa lòng muốn lên thăm
Sườn non đã dốc đá dăm lại nhiều
Lắng tai nghe tiếng chuông chiều
Mặt hồ gợn sóng mây điều bay qua.
(Vô tư)
Tượng Phật trắng chùa Long Sơn trên đỉnh đồi Trại Thủy
Đồi Trại Thủy không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là một trung tâm văn hóa, tôn giáo. Ba ngôi chùa Hải Đức, Bửu Phong, Long Sơn là nơi qui tụ nhiều tăng sư danh tiếng như Hòa thượng Thích Quảng Hương, Thích Trí Tín, Thích Trí Thủ v.v…
Lúc đó anh Tuệ Sỹ vẫn còn ở tại chùa Hải Đức trên đồi Trại Thủy của thành phố Nha Trang. Tôi nhớ, thỉnh thoảng vào buổi chiều tôi và anh thường xuống nhà thăm Quách Tấn. Những lần viếng thăm như vậy, đã an ủi tâm hồn Quách Tấn rất nhiều :
Bạn thơ rày chẳng còn ai
Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà sư
Chung trà hớp vị vô tư
Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng.
Khi tiễn chúng tôi về chùa rồi thì Quách Tấn ngồi một mình nhìn đôi chim én đùa rỡn với đám mây trắng trên bầu trời cao trước hiên nhà :
Gặp nhau nửa buổi chuyện trò
Người về am vắng thơm tho gió ngàn
Một mình ngồi tựa lan can
Nhìn đôi chim én cặp làn mây bay
(Một mình)
Có trải qua những năm tháng sau 1975 thì mới thấy thấm thía những từ như “vô tư”, “thanh hư” hay nhìn đôi chim én cặp làn mây bay” trong bài thơ trên. Chúng nói lên hết tất cả tâm trạng của một người đang ngụp lặn giữa một xã hội bưng bít và hận thù nhưng lúc nào cũng khao khát vươn lên bầu trời cao rộng.
Quách Tấn có hai người bạn (vong niên), cả hai cùng ở chùa Hải Đức Nha Trang và cả hai đều là những tên tuổi lẫy lừng của văn học và tư tưởng Phật giáo Việt Nam hiện đại.
Trong Mộng Ngân Sơn, Quách Tấn có bài tặng Phạm Công Thiện:
Áo giủ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân
(Lịu địu)
Đó là thời gian của những năm cuối thập niên 50 và những năm đầu thập niên 60, đất nước chưa ly loạn, bởi vậy chốn thiền môn cũng được sống trong không khí êm đềm và đạo vị mà ta đã thấy được qua bài thơ trên.
Nhưng đến bài tặng Tuệ Sỹ thì không khí lại hoàn toàn khác:
Ngoài trời những gió cùng mưa
Bâng khuâng nhớ bạn cửa chùa viết văn
Hoa đèn nở nhuỵ chuông ngân
Từng trang giấy lật hương xuân ngọt ngào.
(Nhớ bạn)
Thật là cảm động vì Tuệ Sỹ đến sau Quách Tấn gần nửa thế kỷ mà Quách Tấn vẫn xem như “bạn” thì đủ biết rằng tấm lòng của Quách Tấn trang trọng với Tuệ Sỹ biết chừng nào.
Tôi còn nhớ, có một lần Quách Tấn giảng cho tôi nghe hai câu cuối trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Trên sông khói sóng dục ai sầu).
Ông nói rằng, vì Thôi Hạo là một nhà nho, nên mới hoang mang không biết quê mình ở đâu? Chứ mình là Phật tử mình biết rõ quê hương của mình rồi, không cần phải băn khoăn thắc mắc gì nữa.
Tất nhiên trong tinh thần của thi ca thì quê hương trong bài thơ trên ta có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Có thể đó là tâm trạng của một người đang lang thang phiêu bạt nơi chân trời góc bể khi chiều xuống thì chạnh lòng nhớ về quê hương, chứ không hẳn là quê hương tâm linh theo như cách hiểu của Quách Tấn.
Nhưng cách giải thích như vậy, đã khẳng định rằng, Quách Tấn là một phật tử trọn vẹn, một phật tử đặt niềm tin tuyệt đối của mình vào một quê hương tâm linh theo nghĩa của Phật giáo.
Và theo tôi, Quách Tấn đã khẳng định quê hương tâm linh ấy qua bài thơ sau đây:
Nghìn xưa không còn nữa
Nghìn sau rồi cũng không
Phảng phất bờ trăng rạng
Hương Ưu đàm trổ bông
(Thoáng hiện )
Và tôi vẫn cầu mong rằng hiện nay Quách Tấn đang đứng ngắm hoa ưu đàm trổ bông ở một quốc độ nào đó, Nơi đó tất nhiên không còn sự đau khổ và dằn vặt như kiếp người mà ông vừa vứt bỏ để ra đi.
Và tôi vẫn cầu mong rằng hiện nay Quách Tấn đang đứng ngắm hoa ưu đàm trổ bông ở một quốc độ nào đó, Nơi đó tất nhiên không còn sự đau khổ và dằn vặt như kiếp người mà ông vừa vứt bỏ để ra đi.
(Thích Phước An)
No comments:
Post a Comment
Comments: